Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Câu chuyện kinh Lăng Nghiêm

28/01/202110:11(Xem: 5551)
Câu chuyện kinh Lăng Nghiêm
Câu chuyện kinh Lăng Nghiêm
Phổ Tấn
Buddha-302

Chùa Thiếu Lâm Tự mở ra khóa ngồi thiền cho 18 vị tu thành A la Hán. Khoá tu này trong 30 ngày ngồi trong tịnh thất suốt ngày đêm. Vị chủ trì là Hòa thượng trụ trì của Thiếu Lâm Tự. Thời bấy giờ là mùa xuân, cảnh đẹp hoa nở và thời tiết ấm áp. Mọi thiền sinh miệt mài tập trung thiền định đạt được 30 ngày miên mật thì bỗng xảy ra tiếng nói vọng vào từ ngoài cửa. Giọng nói đầy êm dịu thanh thoát và trong trẻo của một cô gái. Mỗi tiếng phát âm đi sâu vào tim người nghe một cảm giác êm dịu nhẹ nhàng như vuốt ve trái tim của con người.

-           Bạch sư trưởng lão trụ trì. Con là một vương nữ đã đến thiền tự mấy năm nay dâng hoa cúng Phật. Con có nguyện với Phật rằng chính tay con mang tặng đôi giày cho các vị thiền sinh tu tập trong Tịnh thất này vào ngày cuối cùng của khóa thiền tập. Hôm nay là ngày cuối cùng, như con nguyện với Phật, xin sư trụ trì cho phép con mang tặng cho 18 vị tu thành A La Hán đôi giày mà chính con tự tay may vá tạo thành.

-           Vị sư trụ trì bảo, này thí chủ trẻ, nơi đây là tịnh thất cho thiền định của khóa tu thiền và hôm nay là ngày cuối cùng. Thí chủ hãy về đi, tôi không chấp nhận lời yêu cầu này được. Cảm ơn lòng cúng dường của thí chủ.

-           Cô gái trẻ quỳ lạy ở ngay cổng tịnh thất, cất giọng khẩn cầu:  Bạch thầy, con đã thề nguyền với Phật với lòng thành kính là chính tay con may vá tặng 18 đôi giày cho 18 vị tu tập thành A La Hán vào ngày cuối cùng của khóa tu trước khi họ đắc đạo thành A La Hán. Xin thầy cho phép con thực hiện lời thề nguyện này, nếu không còn quỳ mãi ở nơi đây không đứng dậy.  Sư trụ trì Thiếu Lâm Tự từ chối hai lần liên tiếp, nhưng cô gái trẻ vẫn một mực quỳ lạy yêu cầu cho cô thực hiện lời thề nguyện với Phật. Cuối cùng sư trụ trì đành chìu lòng thành của cô gái.

Cô gái bước vào trong tịnh thất, 18 cặp mắt của các vị tu thiền sinh đều ngước nhìn lên cô gái ấy. Một cô gái đẹp vô cùng xuất hiện trước 18 vị. Dáng người thanh thoát mảnh mai, nước da trắng mịn hồng hào, gương mặt trái xoan trắng mịn tươi sáng, ánh mắt long lanh dịu dàng với cặp long mài như lá liễu. Đôi môi chúm chím hồng tươi tự nhiên không son phấn. Mái tóc xõa dài đến ngang lưng đen nhánh và mượt mà. Cả người cô gái thoát ra một mùi hương êm ã dịu dàng thom tho của người con gái mới lớn. Miệng xinh xắn mỉm cười và tiếng nói thì thật là êm dịu thánh thót như chim họa mi cất tiếng hót. Cô gái bước vào mang theo bị túi chứa 18 đôi giày do chính tay cô may vá tạo thành. Với mấy cái khăn lau màu trắng sạch sẽ. Cô gái bước đến một vị thiền sinh chắp tay trước ngực rồi quỳ xuống lạy vị tu thiền, rồi lấy chiếc khăn trắng sạch lau đôi bàn chân của vị thiền sinh rồi chính bàn tay mềm mại đó cô mang đôi giày vào đôi chân của vị thiền sinh này. Một bàn tay mềm mại ngón tay ngòi viết búp măn trắng mịn. Bàn tay ấy và cả người cô gái có mùi hương thơm tho ấy tỏa lên một sức quyến rũ cực kỳ mạnh mẽ. Cô gái vuốt ve đôi chân của từng vị một, lau sạch đôi chân và chính đôi tay ấy mang vào đôi giày đẹp do cô tự may vá lấy. 18 vị thiền sinh sau 30 ngày miên mật thiền định đã bị một sức quyến rũ cực mạnh làm trái tim họ đập mạnh, tâm họ bấn loạn không còn nhất tâm bất loạn được nữa. Họ cố gắng an trụ và điều phục Tâm, họ cho 6 căn của họ không tiếp xúc 6 trần của cả toàn thân và mùi hương của cô gái trẻ. Họ đã cố gắng điều phục chiến đấu Tâm họ ngay lúc này. Thời điểm của ngày thứ 30, kết quả của một tháng nhập thất tịnh tu. Cô gái lau đôi chân và mang đôi giày cho 18 vị thiền sinh xong. Bây giờ cô gái quỳ lạy vị sư trụ trì Thiếu Lâm Tự và cất giọng nói.

-           Bạch sư trưởng lão trụ trì. Con rất cảm tạ người đã cho phép con hôm nay làm tròn điều thề nguyện của con, mà con đã chuẩn bị cả tháng nay. Tâm nguyện của con đã thành, giờ con xin phép đi ra khỏi đây.

Vị trưởng lão trụ trì chậm rãi cất lời, giọng đầy cứng cỏi và vang lên mạnh mẽ.

-           Này cô gái trẻ. Tôi đã từ chối 3 lần việc thí chủ đến đây xin vào tịnh thất mang giày cho 18 vị tu thiền hôm nay, mà cô vẫn một mực đòi hỏi thực hiện. Nay việc đó cô đã làm xong. Cô đã vào tịnh thất vào ngày cuối cùng của khóa tu nhập tịnh thiền để quậy phá tâm tu tập của 18 thiền sinh. Họ đã an định thì nay họ mất hết an định suốt 30 ngày họ tu tập. Việc làm này như Ma Vương quậy phá Đức Phật đang thiền định dưới cội bồ đề khi xưa. Cô đã tạo nghiệp lớn trong đời cô rồi. Với nghiệp này cô sẽ phải trả quả báo của nó. Có hai cách trả nghiệp do cô tự gây ra. Một là cô sẽ làm vợ 18 vị này trong 18 kiếp sau này của Cô. Hai là cô phải tự mình treo cổ chết ngay tại đây để trả hết nghiệp. Cô hãy chọn đi.

Cô gái nghe vậy òa lên khóc nức nở, giọt nước mắt chan chứa làm động tâm từ bi của 18 vị thiền sinh. Nhưng đôi mắt của vị sư trưởng trụ trì vẫn sáng ngời không cảm xúc. Cô gái xin sám hối nhưng vị trụ trì vẫn im lặng không chấp thuận. Cuối cùng cô gái đành chọn treo cổ tự vẫn để trả nghiệp mình làm. Và điều ấy được thực hiện ngay cổng của tịnh thất. Khăn vải trắng được mang ra treo cô gái tại cửa của tịnh thất. Vị sư trụ trì bắt tất cả 18 vị thiền sinh ngồi thiền và ngắm nhìn cô gái ấy giãy dụa chết trước mặt họ. Cô gái xinh đẹp kia giờ đã trở thành một thân xác cứng đờ, lưỡi lè ra dài vì thắt cổ. Thân thể trắng hồng xưa kia giờ đã xanh lè tái nhợt. Đôi mắt long lanh giờ trở thành đôi mắt lòi ra mở rộng không nhắm được. Toàn thân cô gái thom tho xưa giờ bắt đầu rục rã.

 Vị sư trụ trì bắt tất cả 18 vị thiền sinh quán chiếu nhìn thân cô gái trẻ ấy và dạy bảo: Này các con, các con hãy tịnh tâm nhìn thân cô gái đang treo cổ ngay trước cửa tịnh thất mà quán chiếu. Việc quán chiếu đầu tiên là Vô thường. Trước đây cô gái trẻ là người con gái đẹp có sức hút mãnh liệt, giờ là thân thể chết bất động xanh mét và xấu xí. Đó là Vô thường. Biết Vô thường thì rất dễ dàng nhưng cảm nhận Vô thường trong từng sắc na của cơ thể ta là điều rất khó làm được. Thời gian trôi qua làm ta cảm nhận Vô thường vì nó thay đổi theo từng sắc na của quá khứ. Vì Vô thường nên đi đến Vô ngã của chính ta và các pháp xung quanh ta. Các pháp và chính chúng ta đều Vô ngã. Tức là không có cái gì tự nhiên mà hiện hữu, chúng phải dựa vào nhau mà cùng hiện hữu và cùng tiêu diệt. Cái này có cái kia có, cái nầy mất cái kia mất. Duyên khởi là Vô Ngã Tướng mà Đức Phật dạy cho chúng ta. Vì có Ngã có cái tôi nên chúng ta tham sân si tức là có lậu hoặc đau khổ. Đạo Phật có vị giải thoát, lời Phật dạy như biển có vị mặn. Giải thoát là diệt tận cùng các lậu hoặc tham sân si. Diệt bằng cách nó hiện ra thì chặt đứt nó. Chặt hoài nó cứ hiện ra hoài thì quán tận gốc rễ nó là Tánh Không. Ngủ uẩn 6 căn 6 trần 6 thức, 7 đại đều là Không, là không có tự tính, không bền bĩ không tự nhiên mà sinh ra. Vì vậy tất cả là Giả lập, duyên hội tụ thì có, duyên tan rã thì chết, thì bị diệt. Bây giờ thân cô gái đang tan rã, duyên ngũ uẩn đang tan rã. Ngũ uẩn đang trả về với ngũ uẩn. Sắc uẩn thì thành cát bụi, 4 uẩn còn lại là Tâm trả về Tâm thức của cô gái, đợi chờ duyên hội tụ với 7 Đại: đất nước gió lửa không kiến thức mà thành thân thể khác của kiếp sau. Tâm thức này bị nghiệp dẫn đi đầu thai. Cô gái đã tạo nghiệp và đang trả nghiệp. Các con hãy quán chiều đến thân thể bất tịnh của chúng sinh. Như thân thể cô gái này giờ mỗi ngày một sình to lên, lớn lên gần bằng gấp đôi. Tay chân và bụng đều nỡ to lớn và bắt đầu hôi thúi sình to. Thân thể thanh cảnh lúc đầu nay đã trở thành to lớn phình ra và chảy nước. Sự tan rã của thân thể ấy là một minh chứng cho bất tịnh của thân. Hãy ngồi thiền Tứ Niệm Xứ: quán Thân bất tịnh, quán Thọ khổ đau, quán Tâm vô thường, quán Pháp vô ngã. Hãy thiền quán chiếu tận sâu 4 điều trên.

-           Vị sư trụ trì giảng tiếp sau mấy ngày các thiền sinh quán Tứ Niệm Xứ xong. Này các con, kế tiếp là các con hãy quán chiếu Bát Nhã Tánh Không. Đó là bản tánh của sự sự vật vật chúng ta và các pháp. Đó là vô tự tánh của Ngã và Pháp. Đó là bản chất của hiện tượng do hình tướng bên ngoài chúng ta thấy. Kế đến là quán chiếu đến Chân Như là bản chất hiện thực của vạn pháp. Đó là Chân Như, Như Lai Tạng, là Phật Tánh Chân Tâm niết bàn. Giờ ta nói với các con về tánh thấy tánh nghe tánh cảm xúc theo kinh Lăng Nghiêm. Đó là Phật tánh, Chân Như. Khi cô gái bước vào tịnh thất, các con đều ngẩn đầu ngắm nhìn cô gái xinh đẹp là cái thấy vì có đối tượng là cô gái. Khi cô gái chưa xuất hiện thì là cái thấy là thấy không có cô gái. Cái thấy là cái thấy có đối tượng hay không có đối tượng. Tương tự khi cô gái cất tiếng nói ra các con nghe vì có âm thanh đối tượng nghe. Khi cô gái không nói im lặng thì các con nghe là nghe không có âm thanh. Vậy tánh thấy theo kinh Lăng Nghiêm là gì? Khi cô gái xuất hiện là duyên hội tụ lại cô gái có mặt tại tịnh thất. Duyên sanh ra thì tạo đối tượng cho cái thấy cái nghe cái xúc. Duyên này xảy ra cho trần cảnh mà có. Duyên đi đôi với nghiệp tạo thành đối tượng cái thấy cái nghe cái xúc.

-       Bây giờ các con nghiệm lại nền tảng cho cái thấy, môi trường cho duyên này xảy ra, và không gian cho nó hiện hữu. Tất cả là cái cố định không bao giờ sanh diệt bất biến, đó là quy luật cho thấy nghe cảm xúc v.v..quy luật cho 6 căn tiếp xúc 6 trần tạo ra 6 thức . Luật hội tụ sáu cái này là tánh, là bản chất là môi trường là không gian cho nó xảy ra. Đó là Tánh thấy Tánh nghe Tánh cãm xúc v.v. v. Các tánh chất nầy gom lại một tánh chung là Tánh giác. Tánh giác chỉ có một nhưng áp đặt lên 6 căn thì tạo thành 6 tánh của 6 căn đó. Các con nên hiểu Tánh giác đó còn gọi là Phật Tánh là Chân Như là Tri Kiến Phật là Chân Tâm tùy theo kinh Phật giảng mà có tên. Gom lại các bản chất các tánh chất đó là Như Lai Tạng.

 Như vậy kinh Lăng Nghiêm có gọi là vọng thấy vọng nghe là gì? Nói khoa học là sự vận chuyển từ mắt vô võng mạc ở mắt, rồi chuyển hình ảnh ở võng mạc bằng hệ thần kinh điện tử chuyển lên vỏ não ở bộ phận thấy của mắt. Vỏ não có khu vực này để thấy rồi chuyển qua bán cầu não ở khu vực phân tích và bộ nhớ. Tất cả sự hoạt động vận hành này cố định không sinh không diệt có từ muôn đời trước và sau nầy gọi là quy luật tự nhiên, biết được quy luật nầy là Phật Tánh Tánh giác. Giác nầy là không có phân biệt phân tích của não bộ là Tánh thấy. Còn phân tích não bộ là còn cái tôi xen vào. Lúc phân tích là sự hoạt động của Mạc Na Thức số 7 còn gọi là cái Ngã. Vậy vọng thấy vọng nghe vọng cảm xúc đều là có đối tượng có phân biệt phân tích, có xen vào cái Ngã . Còn Tánh thấy thì không có vọng là không có Ngã xen vào không có phân tích. Khi cô gái bước vào và hành động thì các con đã có cái thấy cái nghe cái cảm xúc. Nhưng khi các con quán chiếu trở lại thì Tánh thấy Tánh nghe Tánh cảm xúc là cái bất biến không sanh diệt là bản chất của chúng do các con quán chiếu về nền tảng, về môi trường, về không gian của nó. Gom chúng lại 6 căn với đối tượng 6 trần đó thành một Tánh giác thì Tánh giác nầy áp vào căn nào thì trở thành tánh của căn đó như Tánh thấy là áp vào căn mắt, Tánh nghe v.v..Tánh là bản chất không sanh không diệt cố định và bất biến. Vậy cái gì bất biến trong việc thấy nghe của chúng ta?  Về phân tâm học sự phân tách suy luận phán đoán là sự hoạt động của Ý thức còn lại Tiềm thức và Vô thức thì không có phán đoán này. Phân tâm học đi theo đường của y khoa là khi thấy chuyển lên vỏ não thấy rồi tự nhiên chuyển qua khu vực bán cầu não bộ nên phân tích và đi vào bộ nhớ ngay. Chúng ta không thể ngăn được sự chuyển qua nầy nên có phán đoán ý thích của cái tôi cái Ngã của mình. Tu đạo là kiềm chế sự vận chuyển này để nó đừng đi đến cái Ngã đến tham sân si. Theo Duy Thức thì chủng tử nhìn thấy ghi nhận vào Tàng thức và trú ở đó muôn đời nên khi ta gặp lại người xưa mấy chục năm vẫn còn nhớ vì chủng tử này ở Tàng thức vận hành. Tánh giác là cái biết lần thứ hai biết được mình đã biết những điều qui luật tự nhiên đó. Cái biết đầu là biết của Ý thức, cái biết sau là cái biết của Trí tuệ. Thức biến thành Trí là vậy. Các con hãy cố gắng thiền định về Tánh thấy.

Lục tổ Huệ năng dạy rằng: Người đời sắc thân xem như là bức tường thành, mắt tai mũi lưỡi là các cánh cửa thành, ngoài có 5 cửa tức là căn mắt tai mũi lưỡi thân, trong có cửa ý nên gọi là Ý căn, Tâm là cõi đất, tánh Phật Tánh là vua , vua ngự trên đất tâm là Tánh giác Như Lai phóng ánh sáng lớn ra ngoài soi sáng 6 cửa thanh tịnh phá sạch cõi lục dục, tự sáng chiếu bên trong tiêu trừ 3 độc tham sân si. Trong ngoài sáng rõ thấu suốt không khác gì cõi Tây Phương.  Lục tổ dạy Tánh giác ở bên trong tâm ta rồi sáng chiếu hết 6 cửa thành của 6 căn thông suốt. Vậy tu tập là lấy Ý căn làm chính mà đi vào Tâm để nhận ra Phật tánh Tánh giác để rồi mở Tánh giác đó ra chiếu rọi hết 6 căn thành Tánh thấy Tánh nghe Tánh biết v.v.v. Tu tập là tu Ý căn như kinh Pháp Cú Phật dạy ý dẫn đầu các pháp. Tu Ý căn là dùng ý thức để tránh dùng ý thức. Tại sao? Vì khi thiền đạt Định tức hơi thở vô ra nhẹ nhàng ít oxygen lên não bộ, thì cơ thể buông xả Ý thức ít vận động ít phân tích, giảm dần Ý thức là đi đến Vô phân biệt. Khi Ý thức ít vận hành thì ta dùng Chánh Niệm, công án hay niệm Phật hay niệm Quán Thế Âm hay quán Tứ Niệm Xứ. Ý thức dẹp bớt dần đi đến hết còn Ý thức là trạng thái Định của thiền. Bây giờ Tánh giác từ Tàng thức bật dậy đi ra ngoài mà không bị Mạc Na Thức xen vào. Ý thức của cái tôi Ngã không xen vào thì lúc đó trực nhận trực giác bật lên và đó là Tánh giác là Trí tuệ Bát Nhã. Tức là cái biết lần thứ hai sau cái biết của Ý thức. Cái biết của Ý thức mất thì cái giác bật ra, còn gọi là cái Trí, thức biến thành Trí. Tương tự như quán Tánh Không để đạt Trí tuệ Bát Nhã là Tánh không.

Đến đúng 7 ngày, thân thể của cô gái trẻ đã thành tiêu huỷ, mấy con vòi bò lúc nhút nước vàng chảy lênh láng. Sư trụ trì ra lệnh các thiền sinh đã quán chiếu và nghe thuyết giảng về Tánh giác của kinh Lăng Nghiêm xong, mang thi thể của cô gái ra chôn bên cạnh chùa và canh giữ ngôi mộ này cho đến đúng 49 ngày. Sư trụ trì e ngại có người thương cảm mà ăn cắp thi thể cô gái. Các thiền sinh thay phiên nhau canh giữ ngôi mộ đúng 49 ngày. Sư trụ trì kêu gọi các thiền sinh đúng 18 người đến ngôi mộ, ngồi chung quanh ngôi mộ và ra lệnh khai quật ngôi mộ lên xem thi thể cô gái có bị mất cắp không. Sau khi mở nắp quan tài ra, mọi người ngạc nhiên kêu ồ lên tiếng khi thấy trong quan tài là một tượng của Bồ Tát Quán Thế Âm to lớn bằng người cô gái. Ngoài tượng ra quan tài sạch sẽ không có chất gì của thân thể con người, sạch sẽ và đẹp đẻ như mới. Sư trụ trì ra lệnh mọi người quỳ lạy và tụng bài kinh Quán Thế Âm Bồ Tát và cho biết cô gái ấy là hiện thân của Quán Thế Âm thử thách ngày chót của thiền sinh đã ngộ được đạo. Sự thử thách do lấy 6 căn tiếp xúc 6 trần tạo ra 6 thức là Vọng thức nếu ai đạt Tánh giác thì sẽ đắc đạo tức là Thủ hộ 6 căn thành công. Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát!!!

Phật dạy Y Nghĩa bất Y Ngữ, xin quán câu chuyện hư cấu này với ý nghĩa của nó.




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/07/2021(Xem: 16063)
Vào thời đại khủng hoảng niềm tin của tất cả tôn giáo, lòng người càng lúc hồi hộp bất an, giáo lý đức Thích Ca Mâu Ni như mặt trời chiều xuống bóng hoàng hôn ,Mật Tông Kim Cang Thừa như ngọn đèn sắp tắt, chỉ còn lại những bộ đại tạng kinh phủ đầy bụi trên những kệ kinh, nằm bất tỉnh không ai hỏi thăm trong những tu viên,viện bảo tàng cô đơn thiếu bóng người. Cuốn sách Mật Tông Kim Cang Thừa Chú Giải Toàn Thư Tập Hai, là sự trình bày và phô diễn mật nghĩa thậm thâm của Đại Phật Đảnh Lăng Nghiêm đà la ni , Bát Đại Kim Cang Thần Kinh và các phụ bản vô thượng du già. Là sự trợ duyên cho những ai, đã có gieo hạt giống pháp môn này, có thể khai hoa kết trái thành tựu sự tu tập giải thoát. Linh Quang từ nhỏ xuất gia tu học , tầm sư học đạo, và đi du học nhiều nước, nên trong đầu nhiều ngôn ngữ lộn qua lộn lại, bây giờ Tiếng Việt cũng quên dần,chính tả viết sai nhiều lắm, nên quý vị thông cảm bỏ qua những lỗi lầm về câu văn từ ngữ.
01/07/2021(Xem: 3729)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm những bí yếu cực kỳ nhiệm mầu, vi diệu mà Chư Phật trao truyền lại cho những ai đủ tín tâm thọ nhận. Pháp-bảo được lưu truyền đến nay, vẫn sáng ngời toả rạng lưu ly qua bao thăng trầm của thế sự vô thường, với tâm nguyện hoằng truyền Chánh Pháp của các bậc minh sư, tuỳ căn cơ chúng sanh mỗi thời mà soạn dịch. Một, trong những bổn kinh Diệu Pháp Liên Hoa thường được trì tụng tại các tự viện là bổn cố đại lão Hoà Thượng Thích Trí Tịnh biên soạn, hoàn tất với 557 trang, gồm 7 quyển, chia thành 28 phẩm , mỗi phẩm đầy đủ văn kinh và thi kệ. Cũng do nhu cầu và phương tiện tu học của Phật tử mà Hoà Thượng Thích Trí Quảng cũng đã lược soạn Diệu Pháp Liên Hoa Kinh thành Bổn Môn Pháp Hoa Kinh để Phật tử tại các Đạo Tràng Pháp Hoa có thể hàng ngày trì tụng mà không bị gián đoạn vì không đủ thời gian. Bổn Môn Pháp Hoa Kinh được Hoà Thượng trân trọng biên soạn, cô đ
29/06/2021(Xem: 6102)
Kính Pháp Sư Sướng Hoài, tôi tu sĩ Thích Thắng Hoan đọc qua tác phẩm PHẬT HỌC VĂN TẬP của ngài viết nhận thấy ngài một nhà bác học uyên thâm Phật giáo nắm vững mọi tư tưởng cao siêu của cácphái, các tông giáo cả trong đạo lẫn ngoài đời. Toàn bộ tác phẩm của ngài đều xây dựng vững chắc trên lãnh vực biện chứng pháp của Nhân Minh Luận. Nội dung tác phẩm trong đó, mỗi một chủ đề ngài biện chứng bằng những lãnh vực mặt phải mặt trái, chiều sâu chiều cạn, mặt phủ định, mặt xác định,cuối cùng để làm sáng tỏ vấn đề bằng kết luận. Tôi vô cùng kính nể kiến thức của ngài.
29/06/2021(Xem: 6305)
Phật giáo dùng từ bi làm căn bản, xem trọng giới sát nên thực hành phóngs anh.Từ nghĩa là trao cho khoái lạc; Bi nghĩa là san bằng khổ não. Người đời rất quý mến thân mạng, chồng vợ con cháu, tiền của, nhưng từ chối mỗi người không thể che chở bao gồm chung cả. Giả như nếu bất hạnh gặp gian nguy, vì cứu thân mình, thà bỏ tất cả vật ngoài thân, để cầu được sinh tồn riêng mình.Con người đã tham sống sợ chết, sanh mạng con vật nhỏ bé như con muỗi, con ve, sâu bọ, kiến mối, còn biết tránh chạy cái chết cầu mong được sống, thì các động vật khác chúng nó sao lại không như thế?
28/06/2021(Xem: 3997)
Trước khi nói đến tinh thần Trung đạo của Phật giáo, thiết nghĩ cần phân biệt sự khác nhau giữa tinh thần “Trung dung” và “Trung đạo.” “Trung dung” là những thiên trong Kinh Lễ. Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra Mục đích của sách Trung Dung là giúp con người hiểu được đạo “Trung dung” để đạt đến một trình độ đạo đức cao hơn. Khổng Tử nói về đạo "trung dung", tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử. Cũng theo tinh thần “Trung dung” như thế, không thể có một thái độ “Trung dung” cố định; tùy thời tùy thế mà linh hoạt. “Trung dung” với ý nghĩa trên là dung hợp, quân bình giữa thái quá và bất cập. Ví dụ : thuyết Duy Vật chủ trương tranh đấu; thuyết Duy Tâm của Đức Khổng Tử, chủ trương điều hòa hai yếu tố cực đoan bằng lẽ Trung Dung.
27/06/2021(Xem: 8333)
Pháp Học và Pháp Hành Khi đề cập đến những người tu trong Phật Giáo, thì chúng ta thấy có phân ra hai khuynh hướng tu học, một số vị thì nghiêng về pháp học, còn số vị khác lại chuyên về pháp hành. Vậy pháp học là gì ? Là cả đời tu chỉ chuyên về việc nghiên cứu, học tập kinh điển, xem các luận bản... để biết được hết Tam tạng kinh điển ( Kinh, Luật, Luận ), nhiều vị còn phiên dịch kinh điển, hay viết ra nhiều bộ luận dựa trên kiến thức, sự hiểu biết đã tích lũy. Nhưng tâm thật sự chứng ngộ, hay đạt đạo thì có thể chưa, chỉ hiểu, chứ chưa thực chứng. ( Còn số vị mà chuyên về pháp học nhưng tâm đã giác ngộ thì rất hiếm có, thời nay càng vô cùng hiếm ).
27/06/2021(Xem: 5605)
- Kính thưa chư Tôn đức, chư Pháp hữu & quí vị hảo tâm. Với tâm niệm hộ trì chư Tôn đức Tăng già, các bậc tu hành nơi đất Phật trong lúc nhiều khó khăn do Dịch covid đang nhiễu nhương, chúng con, chúng tôi đã thực hiện hai buổi cúng dường tịnh tài, tịnh vật và một ít nhu yếu phẩm đến chư Tăng Ni thuộc truyền thống Phật giáo Kim Cương Thừa Tibet tại Dharamsala, các vị Ẩn sỹ trên đỉnh Triund Himachal, cũng như các vị Tăng Ni VN hiện đang theo học PG Mật Tông tại Dharamsala India (19 vị). Sư cô Thích nữ Huệ Thảo đã thừa hành Phật sự này và đã cúng dường tất cả là 245 vị tu sỹ, trong đó có 19 vị tránh tiếp xúc đám đông nên đã nhận chuyển vào tài khoản cá nhân từ Sư cô Huệ Thảo, một số vị vì bịnh trạng đã nhờ bạn đồng tu nhận dùm, mỗi vị thọ nhận 1500INR kèm với một số tịnh vật cúng dường.
26/06/2021(Xem: 15616)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
26/06/2021(Xem: 10838)
LỜI NÓI ĐẦU Tác phẩm “Thế giới Cực Lạc” là tuyển tập các bài giảng của thầy Nhật Từ về nội dung của kinh A-di-đà. Với cách diễn tả và phân tích đơn giản và đi thẳng vào mọi vấn đề, thầy Nhật Từ đã giới thiệu về bản chất Tịnh độ Tây phương gắn liền với xã hội con người. Để có được kết quả vãng sanh Tây phương, mỗi hành giả cần hội đủ năm điều kiện tiên quyết.
25/06/2021(Xem: 7929)
Lời Nói Đầu Nam Mô Đại Từ Đại Bi Tầm Thanh Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát. Kính bạch chư Tôn Đức Tăng Ni, Kính thưa quý Phật tử, Trong thời gian cả thế giới đang bị dịch Covid-19, Sa di Thông Đạo đã dày công nghiên cứu Ngũ Bách Danh - Quán Thế Âm Bồ Tát. Đến nay đã hoàn thành bằng ba ngôn ngữ khác nhau: chữ Việt Nam, chữ Anh, chữ Hán. Bất cứ nơi nào có đạo Phật, chắc chắn có tu sĩ, có Phật tử sinh hoạt chung với nhau. Theo truyền thống Bắc tông, hằng năm các chùa đều tổ chức lễ tưởng niệm Đức Quán Thế Âm Bồ Tát ba lần vào những ngày 19 tháng Hai, 19 tháng Sáu, và 19 tháng Chín Âm lịch.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]