Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Biên niên Sử các Hội đồng Phật giáo về Đạo pháp và Giới luật của Sangitiyavamso

17/01/202118:43(Xem: 5123)
Biên niên Sử các Hội đồng Phật giáo về Đạo pháp và Giới luật của Sangitiyavamso

“Biên niên Sử các Hội đồng Phật giáo về Đạo pháp và Giới luật” của Sangitiyavamso, 

các Học giả Ấn Độ đã Xuất bản và Latinh hóa

(Indian Scholars Publish Romanized Edition of Sangitiyavamso: The Chronicle of Buddhist Councils on Dhamma & Vinaya)

 Biên niên Sử các Hội đồng Phật giáo-2Biên niên Sử các Hội đồng Phật giáo-1

Các học giả Phật giáo Ấn Độ, Giáo sư Bimalendra Kumar và Tiến sĩ Ujjwal Kumar đã phát hành một cuốn sách mới được biên tập có tựa đề “Sangitiyavamso: The Chronicle of Buddhist Councils on Dhamma & Vinaya” (Biên niên Sử các Hội đồng Phật giáo về Đạo pháp và Giới luật) của tác giả Sangitiyavamso. Các học biên tập viên miêu tả cuốn sách do Aditya Prakashan, New Delhi xuất bản, là một trong những biên niên sử toàn diện nhất của Thái Lan, kết hợp lịch sử Phật giáo với Lịch sử Vương quốc.

 

Một buổi ra mắt sách tại Hội trường của Hội đồng Nghiên cứu Khoa học Lịch sử Ấn Độ ở New Dlhi, đã được tổ chức vào ngày 4 tháng 1 năm 2021, với sự hiện diện của các học giả nổi tiếng, bao gồm Giáo sư Kumar Ratnam, Giáo sư K. T. S. Sarao và Tiến sĩ Balmukunda Pandey.

 

Cho đến nay, văn học Pali chính thống lưu trữ các văn bản từ truyền thống Sri lanka và Myanmar. Các văn bản tiếng Pali liên quan đến truyền thống Vương quốc Phật giáo Thái Lan, cho đến nay vẫn còn thiếu trong mắt các học giả. Theo thứ tự này, văn bản tiếng Pali Sangitiyavamsa, do Bimaladhamma sáng tác vào năm 1789, là một ấn phẩm quan trọng, cho đến nay học sinh học tiếng Pali vẫn chưa có,” Tiến sĩ Ujjwal Kumar nói với Buddhistdoor Global. “Mục tiêu chính của văn bản là cung cấp thông tin về các Hội đồng Tăng già Phật giáo cũng như lịch sử của Vương quốc Phật giáo Thái Lan. Cuốn sách này chứa đựng những thông tin lịch sử, sẽ là tư liệu quan trọng cho những ai quan tâm đến Phật giáo Vương quốc Thái Lan”.

 

Sangitiyavamsa được sáng tác vào năm 1789 bởi Bimaladhamma, được mọi người biết đến với danh hiệu Somdet Phra Wannarat (Somdet Phra Vanaratana), để kỷ niệm Hội đồng Tăng già Phật giáo thứ 9, theo truyền thống của Vương quốc Thái Lan, được tổ chức tại Thái Lan vào năm 1788, và để cung cấp tính hợp pháp cho triều đại của Đức Quốc vương Rama I (r. 1782–1809). Ngoài việc viết Sangitiyavamsa, Bimaladhamma còn sáng tác hai tác phẩm bằng tiếng Pali khác: “the Mahayuddhakaravamsa”, là một biên niên sử người Môn,  miêu tả cuộc chiến của Vua Rajadhiraja với người Myanmar, và Culayuddhakaravamsa, một biên niên sử của Ayudhaya, miêu tả những câu chuyện nối tiếp nhau của các vị Vua đầu tiên của Vương quốc Ayudhaya, cho đến triều đại của vua Indaraja.

 

Sangitiyavamsa được xuất bản lần đầu tiên ở Thái Lan vào năm 1923 bằng tiếng Thái với bản dịch sang tiếng Thái. Ấn bản hiện tại chỉ sao chép phần văn bản Pali của bản in năm 1923, được chuyển đổi từ hệ thống tiếng Thái sang ngôn ngữ Latinh, cùng với sự đối chiếu với các văn bản Pali khác.

 

“Văn học Vamsa của Sri lanka (Dipavamsa, Mahaavamsa, Culavaṃsa, Mahabodhivaṃmsa, Thupavamsa, v.v.) và Myanmar (Gandhavamsa, Sasanavaṃmsa) nổi tiếng và nhiều trong số chúng đã được xuất bản, nhưng văn học Vamsa của Thái Lan vẫn chưa được biết đến trong giới học thuật và không có bằng tiếng Latinh, chữ viết không phải tiếng Thái khác”, biên tập viên nêu rõ trong phần giới thiệu cuốn sách. “Công việc hiện tại là một nỗ lực để xuất bản lần đầu tiên ấn bản hoàn chỉnh bằng tiếng Latinh của “.

 

Cuốn sách gồm chín chương, một số chương bao gồm một số phần phụ, ngoài ra còn có phần giới thiệu chi tiết. Mục đích chính của tập sách là trình bày chân dung của chín Hội đồng Tăng già Phật giáo Nguyên thủy (ba ở Ấn Độ, bốn ở Sri Lanka và hai ở Thái Lan) theo thứ tự thời gian, bất kể địa điểm của các Hội đồng Tăng già Phật giáo đó.

 

Trong số những người biên tập, Giáo sư Bimalendra Kumar Trưởng Khoa Pali và Nghiên cứu Phật học tịa Đại học Đại học Banaras Hindu ở Varanasi, Ấn Độ. Các lĩnh vực ông quan tâm là tiếng Pali, Phật giáo Nguyên thủy, Văn học Pali, Triết học Phật giáo (Abhidhamma Philosophy), và Phật giáo Tây Tạng.

 

Tiến sĩ Ujjwal Kumar, Phó Giáo sư và Trưởng khoa Phật học tại Đại học Calcutta ở Kolkata. Ấn Độ. Đóng góp lớn của ông trong lĩnh vực nghiên cứu tiếng Pali và ấn bản Devanagari và bản dịch tiếng Hindu của các văn bản Pali niti, Lokaniti, Pali-Canakyaniti, Maharahanati.

 

Giáo sư Bimalendra Kumar và Tiến sĩ Ujjwal Kumar cho biết: “Sgv [Sangitiyavamsa], nơi tích hợp về mặt văn hóa và trí tuệ của ba nền văn minh, cụ thể là Ấn Độ, Sri Lanka và Thái Lan, có một mối liên quan đặc biệt ngày nay”.

 

“Ấn bản tiếng Latinh mới của Sgv cũng có thể đóng vai trò là một bản hòa hợp văn hóa độc đáo giữa người dân Ấn Độ, Sri Lanka và Thái Lan. Đó là một ví dụ mạnh mẽ về thuyể vũ trụ quan của tiếng Pali là ngôn ngữ của Phật giáo Nguyên thủy, nó đã đi từ Ấn Độ đến Sri Lanka và Thái Lan thông qua Tam Tạng (Tipitaka; སྡེ་སྣོད་གསུམ་) Thánh điển Phật giáo và lịch sử phát triển và tiếp thu của chính nó”.

 

Thích Vân Phong biên dịch

(Nguồn: Buddhistdoor Global)




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/11/2014(Xem: 8326)
Giáo sư Tiến sĩ Genshitsu Sen, pháp danh Hanso Sōshitsu, sinh vào ngày 19 tháng 4 năm 1923, tại Kyoto, Nhật Bản. Giáo sư Genshitsu Sen, một kỳ lão Cựu phi công cảm tử ở tuổi thượng thọ 91 xuân, cựu Trưởng môn Phái trà đạo Urasenke đời thứ 15, sau khi thoát khỏi cái chết thời đệ nhị thế chiến, Giáo sư đó đây ngao du sơn thủy khắp thế giới và đáp ứng nhu cầu các nhà lãnh đạo thế giới, nhằm thúc đẩy hòa bình thông qua “Con đường Trà đạo”. Là con trai lớn và là đệ tử chân truyền của Giáo sư Sekisō Sōshitsu (1893-1964) cựu Trưởng môn Phái trà đạo Urasenke đời thứ 14.
08/11/2014(Xem: 17307)
Trong những pháp môn Phật dạy, tôi cả đời chuyên tâm nơi pháp môn Trì danh niệm Phật. Pháp tu niệm Phật có nhiều, trì niệm danh hiệu Phật là một trong những pháp niệm Phật. Đây là pháp môn dễ tu, dễ thực hành nhất, dễ thành tựu. Về chỗ thành tựu cũng như chỗ đạt được rất rõ ràng từng bước, từng nấc tiến, có thể diễn nói, có thể khắc nghĩa.
04/11/2014(Xem: 7425)
Trong đời sống chúng ta thấy một số người có những quan niệm rất ngộ nghĩnh, hay kỳ quặc. Nhiều người trong họ là những người có ăn học, trí thức nhưng họ lại tin vào những điều huyền hoặc, không tưởng. Như có người tin rằng các loài khủng long bị diệt chủng là do các nhà khoa học chế tạo ra, chứ không có thật.
02/11/2014(Xem: 6655)
Đêm hôm đó là một đêm trời mưa. Mưa dai ẳng như tình quê xứ Huế, nhưng không phải Huế. Mưa đang rơi trong trời đêm Thụy Sĩ. Càng về khuya, mưa rơi càng nặng hạt. Vạn vật im lìm đứng lặng trong đêm. Thời gian nhẹ trôi. Không gian yên vắng. Tất cả đang chìm vào tĩnh mịch giữa đêm khuya. Mọi nhà hàng xóm đều tắt đèn yên nghỉ. Không còn một tiếng động dù nhỏ nào, ngoài tiếng mưa rơi rả rích lẫn với tiếng tâm tình rù rì của anh em Gia Đình Phật Tử Trí Thủ chúng tôi ngồi quây quần bên nhau trên căn gác xếp nhà anh Khá.
31/10/2014(Xem: 7129)
Sáng nào tôi cũng đi thiền nhặt rác 2 - 3 vòng quanh công viên Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy. Vừa thong thả bước những bước thảnh thơi, không vội vàng, không suy tư vừa nhặt rác, nếu thấy có. Chân nhẹ bước, tay lượm rác, tay cầm rác, mũi hít thở không khí trong lành buổi ban mai. Hà Nội mùa thu đẹp lắm. Càng ngày tôi càng yêu mùa thu Hà Nội. Mùi hoa sữa vẫn thơm đầu ngày mới. Ánh mặt trời dần rạng tỏ sớm mai. Tôi mê ngắm mặt trời mọc và lặn từ bao giờ chẳng biết. Dù ở đâu cũng thấy bình minh và hoàng hôn đẹp vô cùng. Bagan hay Aytthaya. Siem Riep hay Ngũ Hành Sơn. Mandalay hay Chieng Mai. Hồ Tây hay Bồ Đề Đạo Tràng. Bà Nà hay Lâm Tỳ Ni. Đẹp vô cùng và thấy tâm an lạc và thảnh thơi đến khó tả.
31/10/2014(Xem: 8196)
Hồi Thầy mới vào chùa năm 16 tuổi, trên phương diện danh từ thì mình đã được gọi Bụt Sakyamuni là Bổn Sư (Nam Mô Đức Bổn Sư Bụt Sakyamuni). Bổn Sư (tiếng Bắc là Bản Sư) có nghĩa là Thầy tôi. Nhưng kỳ thực đức Bụt mà mình được gặp khi mới vô chùa không phải là một vị Thầy đích thực mà là một nhân vật rất huyền thoại, đầy phép lạ, đầy thần thông, rất xa cách với con người. Mình không được gặp Bụt của đạo Bụt nguyên thủy mà cũng không được gặp Bụt của đạo Bụt tiểu thừa. Hình ảnh Bụt nguyên thủy là một vị Thầy ăn mặc rất đơn sơ, trải bồ đoàn tọa cụ ngồi trên đất, ngồi pháp đàm, nói pháp thoại và ăn cơm với các Thầy. Mình không gặp được hình ảnh đó, vì vậy trên phương diện danh từ mình được gọi là Thầy tôi nhưng kỳ thực giữa mình với đức Sakyamuni có một khoảng cách rất lớn. Đó là một nhân vật hoàn toàn thần thoại, đầy phép lạ.
31/10/2014(Xem: 7997)
Pháp môn mà mình nói tới đó là pháp môn xây dựng tăng thân, được gọi tắt làdựng tăng. Đó cũng là công trình của Bụt, đó là sự nghiệp của Bụt. Ngay sau khi thành đạo, Bụt đã biết rất rõ rằng nếu không xây dựng được một tăng thân thì mình không thể nào thực hiện được sự nghiệp của một vị Bụt. Vì vậy Ngài đã để ra rất nhiều thì giờ và công sức để xây dựng một tăng thân. Ngay trong năm đầu sau khi thành đạo, Bụt đã xây dựng một tăng thân xuất gia gồm có 1250 vị, và tăng thân này đầu tiên xuất hiện tại một rừng kè ở ngoại ô thành phố Rajagraha. Năm Ngài 80 tuổi, Vua Prasenajit (Ba Tư Nặc) có nói một câu rất hay để ca ngợi Bụt về công trình xây dựng tăng thân ấy. Vua nói: Bạch đức Thế Tôn, mỗi lần con thấy tăng thân của đức Thế Tôn là con lại có niềm tin nhiều hơn ở nơi chính đức Thế Tôn.
31/10/2014(Xem: 7409)
Mùa Xuân ta lên núi Hăm hở làm sơn ̣̣đồng Bỏ con đường khói bụi Cho sách vở vời trông... Rời mái trường Vạn Hạnh, còn đang lang thang dạy giờ ở các trường Bồ-đề, ngong ngóng một xuất học bỗng du học, tôi bất ngờ bị Sư Bà áp giải lên núi, sau lời phán quyết chắc nịch: “Con phải học một khóa tu Thiền ba năm với Thượng Tọa, xong rồi muốn đi đâu cũng ̣̣được... Còn bây giờ, dứt khoát là…Không!”.
28/10/2014(Xem: 7764)
Có những gì cần phải sửa trong Kinh Phật hay không? Có những gì cần phải cắt bớt khỏi Kinh Phật, hay cần phải bổ túc thêm cho Kinh Phật hay không? Câu trả lời tất nhiên không dễ. Vì người xưa đã nói, nếu chấp vào nghĩa từng chữ một, có thể sẽ hiểu nhầm ý của Phật; nhưng nếu rời kinh một chữ, lại hệt như lời ma nói. Nguyên văn: Y kinh giải nghĩa, tam thế Phật oan; ly kinh nhất tự, tức đồng ma thuyết.
26/10/2014(Xem: 9266)
Gió mùa thu năm nay, trở nên khô khốc, ảnh hưởng bởi nạn hạn hán trầm trọng nhất trong nhiều thập kỷ qua ở xứ này. Nhưng đâu đó trên hành tinh, mưa thu lất phất bay, và gió thu se sắt gợi buồn; cũng có nơi mưa ngập cả các con lộ chính của thành phố lớn để người và xe cộ phải lội bì bõm trong giòng nước ngầu đục. Và chỗ nọ, chỗ kia, làn gió dân chủ, hòa bình, khơi niềm hứng cảm cho sự vươn dậy của ý thức tự do, khai phóng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]