Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hình Bóng Con Trâu Qua Ca Dao-Tục Ngữ Phật Giáo Việt Nam

03/01/202118:40(Xem: 5624)
Hình Bóng Con Trâu Qua Ca Dao-Tục Ngữ Phật Giáo Việt Nam

HÌNH BÓNG CON TRÂU

QUA CA DAO-TỤC NGỮ PHẬT GIÁO VIỆT NAM

 Hình Bóng Con Trâu  Qua Ca Dao-tục Ngữ Phật Giáo Việt Nam-1Hình Bóng Con Trâu  Qua Ca Dao-tục Ngữ Phật Giáo Việt Nam-2

 

            “Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”…  Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ. 

            Riêng đối với Phật giáo, có lẽ ai là người am hiểu, hay đang nghiên cứu học hỏi Phật pháp đều cũng đã biết đến hình ảnh con trâu mang tính tượng trưng cho cái Tâm (Chơn Tâm) được biểu hiện nổi bật trong bộ “Thập mục ngưu đồ”(mười bức tranh chăn trâu) mang cả hai khuynh hướng Đại Thừa và Thiền Tông. Trâu cũng góp mặt trong những câu ca dao- tục ngữ Phật giáo Việt Nam, nói vậy tức là đang muốn nói đến những câu có liên quan đến Tam Bảo (Phật-Pháp-Tăng), cũng có thể là những câu có liên quan đến giáo lý của đức Phật- Phật Pháp- bao gồm cả sự vật, sự kiện, đề tài… Phật pháp vô biên. Phật pháp uyển chuyển nhiệm mầu. Vì vậy, chúng ta sẽ nhìn thấy, nắm bắt được những câu mang đẫm đạo vị của Pháp Phật về đạo hiếu, về nhân quả luân hồi, về nghiệp dĩ nhân duyên, về kiết hung thiện ác, về chánh đạo và cả những gì phản nghịch lại chánh đạo diễn ra trong cuộc đời sống động đầy hỉ nộ ái ố bi dục lạc …

           “ Trai thời trung hiếu làm đầu”, hai chữ Trung và Hiếu đã khiến cho những đấng tu mi nam tử phải gặp những khổ ải ghê gớm để vượt qua, hòng tìm đến với mộng trung nhân mà xây đắp dệt thêu tình duyên của mình:

Ngó lên trời thấy cặp cu đang đá

Ngó xuống biển thấy cặp cá đương đua

Anh về lập miếu thờ vua

Lập trang thờ mẹ, lập chùa thờ cha

Anh về anh bán gốc đa

Bán cặp trâu già mới cưới đặng em!

            Lập miếu, lập trang, lập chùa, hay bán cặp trâu già thì còn có thể làm được nếu như nhà giàu có nứt đố đổ vách. Nhưng còn cây đa, loại cây được xem là giống cây bồ đề thuần tuý Việt Nam, bồ đề lại mang tính thiêng liêng gần gũi với đạo Phật, vậy mà thách chàng bán cả gốc đa, thì quả là thử thách gian nan. Nói thì nói vậy, thách thì thách vậy, nhưng trong tâm khi đã thấm nhuần đạo lý, hiểu rõ “nghiệp dĩ nhân duyên” thì không còn xem trọng vật chất vô thường hay của cải phù vân, cũng không còn phân biệt giàu nghèo hèn sang, nên mấy chàng hãy yên chí lắng nghe:

Số giàu tay trắng cũng giàu

Số nghèo chín đụn mười trâu cũng nghèo!

Phải duyên phải kiếp thì theo

Thân em có quản khó nghèo làm chi

Chữ nhân duyên thiên tải nhất thì

Giàu ăn, khó chịu, lo gì mà lo!

           Đúng vậy. Lo gì mà lo. Đói thì ăn, khát thì uống, mệt thì nghỉ, “đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền” là hạnh phúc rồi! Vì vậy, các đấng mày râu đừng có dại mà động khẩu mở lời hỏi những câu rặt mưu mô tính toán làm cho đạo nghĩa bay đi:

Hỡi cô cắt cỏ đồng mầu

Chăn trâu cho béo, làm giàu cho cha

Giàu thì chia bảy chia ba

Phận em là gái  được là bao nhiêu?

           Cuộc đời là một giấc mộng dài, có đó mất đó, nhiều đó liền ít đó, thậm chí  đang vàng vun bạc đống trong phút chốc lại trống rỗng trắng trơn:

Chín đụn mười trâu, chết hai tay cắp lỗ đít.

            Hà cớ gì phải chạy theo tiền tài danh vọng, lao đầu vào cuộc cạnh tranh để tìm kiếm vinh hoa phú quý? Nào có sướng bền ấm lâu, thân tâm an lạc? Chi bằng biết “thiểu dục tri túc”, hạn chế ham muốn, biết đủ biết dừng, để vơi bớt cái khổ lo toan mưu tính hằng ngày:

Trâu ta ăn cỏ đồng ta

Tuy rằng có cụt nhưng mà cỏ thơm!

             Được bao nhiêu thì thọ hưởng bấy nhiêu, có gì xài nấy, tội dại chi mà cứ ước muốn vượt quá tầm tay, nằm mộng giữa ban ngày, để rồi khi giật mình thức giấc phải bàng hoàng trước sự thật:

Ba vợ, bảy nàng hầu

Đêm nằm chuồng trâu, gối đầu bằng chổi.

        Ảo vọng. Ảo cảnh. Ảo ngay trong cuộc đời ảo. Thôi thì biết thân biết phận, hãy dôc tâm dốc sức của chính mình, tự đi bằng đôi chân của mình, không nhờ vả phiền hà ai, đó cũng là lời chỉ dạy của giáo lý nhà Phật về chánh tinh tấn:

Nghé ơi ta bảo nghé này

Nghé ăn cho béo, nghé cày cho sâu

Ở đời khôn khéo chi đâu

Chẳng qua cũng chỉ hơn nhau chữ Cần!

          Siêng năng, chuyên cần, cần cù nhẫn nại với chánh nghiệp, ắt có ngày gặt hái những kết quả tốt đẹp. Miễn là đừng “biến chất thoái hoá” thành hạng người:

                                                           Đầu trâu mặt ngựa

          Những hạng người đó dường như chỉ có ở cõi Diêm Phù, chắc chẳng ai thích làm Ngưu Đầu- Mã Diện dưới âm phủ, nhưng cũng đã có nhiều kẻ tự mình “hoá kiếp” cho mình ngay ở kiếp hiện tiền bằng sự vong ân bội nghĩa:

Rõ là phản phúc đầu trâu

Ăn cơm nhà Phật đốt râu thầy chùa!

           Là Phật tử, làm gì thì làm, nói gì thì nói, nhưng chớ phạm vào giới “vọng ngôn vọng ngữ” mà mang tiếng:

Thật thà cũng thể lái trâu,

Yêu nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng!

           Giữa cuộc sống đời thường, khi nói đến quan hệ giữa mẹ chồng và nàng dâu trong gia đình, là chạm đến một mối rối rắm như tơ vò, đủ thứ chuyện sẽ xảy ra chung quy cũng bởi “khẩu nghiệp nặng nề”:

Trâu bò ở với nhau lâu, quen chuồng quen chỏi

Người ở với nhau lâu, inh ỏi đủ điều.

         Nhưng mối quan hệ này tuy rất nhạy cảm rối răm, mà cũng rất thiêng liêng nếu như nghe được câu này:

Chàng dữ thì em mới rầu

Mẹ chồng mà dữ, giết trâu ăn mừng!

          Mẹ chồng mà dữ thì nàng dâu mới nên người, mới biết lo canh cánh mà giữ “tam tòng”(tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử) và tứ đức (công, dung, ngôn, hạnh), còn không thì cũng giữ gìn “tam quy-ngũ giới” cho xứng đáng con nhà Phật. Mẹ chồng mà hiền lành nhân hậu, lúc nào cũng buông xả tha thứ, độ lượng khoan dung thì mấy nàng dâu sẽ rủ nhau mà nhảy vào vòng vô minh, để cho “tam độc” tham sân si  quấn lấy cuộc đời:

Một nhà mà có ba dâu

Dâu cả buôn bán ra mầu sân si

Dâu hai có ý mỹ miều

Tiền tiền thóc thóc bao nhiêu chẳng về

Dâu ba chum chúm dâu chê

Nhờ ơn bác mẹ đi về tỉnh Nam

Dâu tư có tính tham lam

Chăn trâu cắt cỏ nhôm nhoam ngoài đồng!

          Cứ lặn hụp mãi trong vô minh thì bao bao giờ mới tìm thấy ánh sáng để đưa cuộc sống mình đến tháng ngày an nhiên thanh thản? Đến lúc gặp “nghiệp chướng oan khiêng” lại khóc lóc than van cho cái kiếp số của mình:

Biết bao tủi nhục chị ơi

Làm thân lẽ mọn kiếp tôi nhục nhằn

Chịu đấm xôi chả được ăn

Chém cha cái kiếp trâu lăn thế này!

            Duyên kiếp, kiếp số của con người đều xuất phát từ nhân quả luân hồi:

Làm kiếp trâu ăn cỏ, làm kiếp chó ăn dơ.

            Nào ai muốn làm kiếp súc sinh? Ai cũng muốn làm người được ăn no mặc đẹp. Nhưng rất nhiều người lại quên đi bài học: gieo ác gặt ác, gieo gió gặt bão. Gieo nhân lành ắt hái quả ngọt. Không trốn chạy tránh né  đi đâu được:

Trâu ác thì trâu gạt sừng

Bò ác thì bò còng lưng méo sườn.

            Chỉ khi chúng sanh nương nhờ Tam Bảo để nhất tâm tu học, tinh tấn tu hành, “đoạn ác tu thiện”, thì may ra mới “chuyển nghiệp” được cho mình, và có thể cả cho tha nhân. “Trâu chết để da, người ta chết để tiếng”, con trâu khi làm kiếp súc sinh có lẽ nó cũng biết tu, hoặc có tu từ kiếp trước, nên nó biết “chuyển nghiệp” cho mình, khi bị hoá kiếp đầu thai thành kiếp khác, nó vẫn còn lưu lại thân xác hữu dụng của nó cho cuộc sống đầy bụi bặm này. Bộ da của trâu đã tìm về như muốn nương nhờ cõi già lam thanh tịnh, và trở thành một pháp cụ đàng hoàng oai nghi:

Con trâu có một hàm răng

Ăn cỏ đất bằng, uống nước bờ ao

Hồi nào mày ở với tao

Bây giờ mày chết, tao cầm dao xẻo thịt mày

Thịt mày tao nấu cháo linh binh

Da mày bịt trống tụng kinh trong chùa

Sừng mày tao tiện con cờ

Cán dao, cán mác, lược dầy, lược thưa…

           Dân gian có câu đố  về “cái trống” được bịt bằng da trâu rất thú vị:

Có mặt mà chẳng có đầu

Lúc nghèo thì bạn với trâu

   Đến lúc vinh hiển gọi cô nàng hầu!

           Hãy thử tịnh tâm lắng nghe âm thanh của ba hồi chuông trống Bát Nhã từ các chốn thiền tự vào đêm trừ tịch đất trời giao thoa. Tiếng trống dập dồn trầm hùng nào là tiếng trống được bịt bằng da con trâu? Da trâu đó là của con trâu nào? Hồn vía nó đang ở đâu? Nó có được đầu thai làm kiếp khác hay không? Đầu thai thành kiếp người hay kiếp gì?

           Lạy chư Phật mười phương, xin hồi hướng công đức đến tất cả những con trâu đã giúp đỡ cho con người bao đời qua…

 

 

                                                                        Tâm Không Vĩnh Hữu

 Liên hệ:

VĨNH HỮU

Tổ 1 - Thôn Vĩnh Điềm Trung – Xã Vĩnh Hiệp

TP. Nha Trang – Khánh Hòa ĐT: 0902010763

 

 

 




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/10/2020(Xem: 6430)
Ma là một khái niệm mơ hồ, có người tin và có người không tin, tuy nhiên luôn là đề tài hấp dẫn đối với phụ nữ mặc dù các bà rất sợ ma nhưng lại thích nghe chuyện ma. Từ xưa đến giờ chưa ai thấy hình dáng, hình tượng con ma ra sao, thế nhưng trong tưởng tượng, mọi người phác họa ra những con ma vô cùng đa dạng, độc đáo.
15/10/2020(Xem: 5812)
Khi Đảng Cộng sản Trung Quốc tiếp tục lạm dụng người Duy Ngô Nhĩ, người Tây Tạng và những người khác, Hoa Kỳ phải tiếp tục dẫn đầu trong việc duy trì tự do tôn giáo. Về vấn đề tôn giáo tại Trung Quốc, Bắc Kinh đã nói rõ một điều hoàn toàn không rõ ràng: “Không có nhóm tôn giáo nào nằm ngoài tầm kiểm soát của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ)”.
15/10/2020(Xem: 6778)
Cư sĩ Stephen Batchelor, một nhà văn Phật giáo đương đại, nổi tiếng với cách tiếp cận thế tục hay bất khả tư nghì đối với Phật giáo. Cư sĩ Stephen Batchelor coi Phật giáo là một nền văn hóa không ngừng phát triển của sự giác ngộ hơn là một hệ thống tôn giáo, dựa trên những giáo điều và niềm tin bất biến. Đặc biệt, ông tôn trọng các giáo lý về nghiệp báo và tái sinh để trở thành những đặc điểm của nền văn minh Ấn Độ cổ đại, và không nội tại đối với điều Đức Phật dạy.
15/10/2020(Xem: 6260)
Ngài Lạt Ma Phật giáo Nổi tiếng, Tôn giả Ngawang Tenzin Jangpo, Phương trượng Trụ trì Tu viện Tengboche (Tengboche Monastery) và được mệnh danh là “tiếng nói tâm linh của vùng Khumbu”, Nepal đã viên tịch tại quê hương Namche Bazaar, Huyện Solukhumbu của Tỉnh số 1 phía đông bắc Nepal. Trụ thế 85 xuân. Ngài được cung thỉnh ngôi vị Phương trượng Trụ trì Tu viện Tengboche từ năm 1956, nơi Ngài được nhiều thế hệ người Shepa biết đến, cũng như những người đi bộ và leo núi viếng thăm, những người đã nhận được sự chúc phúc cát tường từ Ngài khi họ đi qua Vườn Quốc gia Sagarmatha (Sagarmatha National Park) trong chuyến du hành. Ngài là một Tulku, được công nhận, hóa thân của Lạt Ma Gulu, người sáng lập Tu viện Tengboche.
14/10/2020(Xem: 7896)
TÂM THƯ Kêu gọi Cứu trợ nạn lũ lụt Miền Trung Việt Nam năm 2020 Nam Mô Cứu Khổ Cứu Nạn Đại Từ Đại Bi Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát Kính Bạch Chư Tôn Hòa Thượng, Chư Thượng Tọa, Quý Ni Trưởng, Ni Sư, Chư Đại Đức Tăng Ni Kính thưa toàn thể quý Nam Nữ Phật Tử Cư Sĩ Thiện Hữu, Quý Đồng Hương Đồng Bào Kính Thưa Quý Vị, Trong tuần lễ vừa qua, trên những kênh truyền thông mạng, đã đăng lên những hình ảnh thật bi thương cho dân chúng đồng bào quê hương miền Trung nước Việt Nam. Nhìn cảnh nước mênh mông không thấy đất bằng, chỉ thấy những nóc nhà nhô lên khỏi mặt nước. Có những nơi thì cây cối cột điện ngã nghiêng, mái nhà tôn ngói bay tứ tung. Nhìn cảnh vật thật đau đớn thương thay cho đồng bào quê hương miền Trung gồm những tỉnh như Quảng Bình, Quảng Trị, Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi. Đúng là Họa Vô Đơn Chí, cơn dịch nhiễm Corona chưa qua khỏi, bây giờ lại hứng lấy cảnh thiên tai bão lụt.
12/10/2020(Xem: 7680)
Nhà văn nổi tiếng nhất trong nền văn học viết bằng tiếng Trung Quốc để kêu gọi bảo vệ nền văn hóa Tây Tạng có lẽ là Tsering Woeser. Chị là nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nhà hoạt động nhân quyền, và là người viết blog nổi tiếng được nhiều giải thưởng văn học và nhân quyền quốc tế. Và đương nhiên Woeser liên tục bị bao vây, cô lập.
12/10/2020(Xem: 13299)
Biển đêm dậy sóng cuồn cuộn dâng cao Sợ hãi khôn xiết tìm đâu nơi ẩn náu Sóng yên biển lặng: hồng danh nhiệm mầu Quán Âm linh hiển khổ nạn đều tan biến
11/10/2020(Xem: 15529)
Thiền là một lối sống, một dòng suối thuần khiết trong trần thế đa tạp và là thứ ánh sáng kỳ diệu nơi thế tục. Hãy trải nghiệm cuộc đời bằng tâm Thiền, tìm ra những điều tốt đẹp chân chính trong cuộc sống với lòng Bồ Đề, trái tim Bát nhã và tâm Thiền của chúng ta. “Cuộc sống chính là Thiền”, chúng ta phải hiểu ra đạo Thiền trong cuộc sống. Xa rời thế tục để cầu Thiền bái Phật chẳng khác nào “bắt cá bằng cọc đa”, không thể nào chứng ngộ. Giống như tổ thứ 6 thiền sư Huệ Năng nói: “Bồ đề bổn vô thụ, Minh kính dịch phi đài. Bổn lai vô nhất vật, Hà xứ nhạ trần ai.” Bồ đề là tâm, trần ai bắt nguồn từ cuộc sống, dùng trí tuệ của Thiền để quét sạch, vậy trời đất sẽ tự nhiên bình yên, thanh tịnh.
11/10/2020(Xem: 5233)
Dharamshala: Khi nhận được tin rằng, Ủy ban Giải thưởng Nobel Na Uy tuyên bố Giải Nobel Hòa bình năm 2020 được trao cho Chương trình Lương thực Thế giới (WFP), Đức Đạt Lai Lạt Ma đã viết thư cho Ông David Beasley, giám đốc điều hành Chương trình lương thực Liên Hiệp Quốc (cũng là cựu thống đốc bang South Carolina, Hoa Kỳ) để chuyển lời chúc mừng.
10/10/2020(Xem: 5103)
Gần đây, Times Network đã nói chuyện với cư sĩ Tsewang Thinles, Chủ tịch Hiệp hội Phật giáo Ladakh (Ladakh Buddhist Association, LBA) về những căng thẳng biên giới giữa Ấn-Trung. Chủ tịch LBA nói rằng, những người Ladakh luôn sát cánh cùng quân đội Ấn Độ và luôn đồng hành cùng họ. Ông nói rằng, họ đã phải đối mặt với một vấn đề trong vài tháng nay với quân đội Trung Quốc. Vấn đề tồn tại ở biên giới phía Đông của Ladakh, mà theo ông là một vấn đề đáng quan tâm đối với họ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]