Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cội nguồn thơ: nơi vô cùng tịch lặng

21/12/202012:25(Xem: 7672)
Cội nguồn thơ: nơi vô cùng tịch lặng

 

Cội nguồn thơ: nơi vô cùng tịch lặng

Nguyên Giác

 

   Thơ là chữ viết, nhưng thơ cũng là giữa những dòng chữ. Thơ là lời nói ra, nhưng thơ cũng là giữa những lời nói ra, hiển lộ cả trước và sau lời nói ra. Thơ là ngôn ngữ và thơ cũng là vô ngôn, là tịch lặng. Và là bên kia của chữ viết, bên kia của lời nói. Khi đọc xong một bài thơ hay, khi không còn chữ nào trên trang giấy để đọc nữa, chúng ta sẽ thấy thơ là một cái gì như sương khói, mơ hồ, lung linh, bay lơ lửng quanh trang giấy. Cũng như thế, Kinh Phật là thơ, là lời nói, là tịch lặng, là bên kia ngôn ngữ. Khi bài Tâm Kinh đọc xong, khắp thân tâm và toàn bộ ba cõi sáu đường đều mát rượi, ngấm được cái đẹp của tịch lặng ẩn hiện bên kia những chữ vừa đọc xong. Cội nguồn thơ, cũng là cội nguồn Kinh Phật, đó là nơi của vô cùng tịch lặng, một vẻ đẹp như sương khói phả lên những gì chúng ta nhìn, nghe, cảm xúc và hay biết.

   Chúng ta có thể kinh nghiệm được cái tịch lặng. Nó không phải là âm thanh, cũng không phải là cái vô thanh. Khi chúng ta gõ lên một tiếng chuông, tịch lặng là cái bao trùm cả ba thời của tiếng chuông, hiển lộ trước, trong khi và sau khi tiếng chuông tắt. Cho nên, cái tịch lặng tận cùng, vẫn nằm sẵn trong âm thanh và xuyên suốt qua ba thời quá-hiện-vị-lai của âm thanh. Đó là cái tịch lặng không dựa vào đâu hết, và là tận cùng hạnh phúc. Do vậy, trong bài Kệ 134 của Kinh Pháp Cú, Đức Phật nói rằng nếu bạn giữ tịch lặng như một cái chiêng (cồng) bể, bạn sẽ chứng Niết Bàn.

Rất ít nhà thơ viết về cái tịch lặng, cái tận cùng của ngôn ngữ. Thơ là lời nói, là chữ viết, do vậy không dễ viết lên được cái tận cùng và là cái bao trùm của ngôn ngữ. Một số nhà thơ đã viết lên cái kinh nghiệm về tịch lặng, trong đó có lẽ nổi tiếng nhất là Ba Tiêu (Basho), một nhà thơ Nhật Bản của thế kỷ 17. Một trong những bài thơ nổi tiếng của Ba Tiêu (1644–1694) là viết về sự tịch lặng sâu thẳm hiển lộ khi tiếng ve sầu kêu ngấm vào trong đá. Bài thơ Ba Tiêu viết theo thể thơ haiku, ba dòng, khi lên núi thăm Chùa Yama-dera vào năm 1689.

Xin dịch bài thơ “Chùa Núi” như sau:

Tịch lặng sâu thẳm
tiếng kêu của ve sầu
ngấm vào trong đá.

            —Matsuo Basho (1644–1694)

Một bài thơ khác của Ba Tiêu, nhan đề là Gió Mùa Thu, cũng nói về cái đẹp của tịch lặng khi nhà thơ đứng giữa trận gió mùa thu. Bài thơ xin dịch như sau.

Tôi có nên nói một lời
môi tôi lạnh rồi
giữa trận gió thu.

Đọc lại cuộc đời của Ba Tiêu, chúng ta sẽ thấy rằng phải trải qua trăm cay nghìn đắng trong đời rồi mới tới lúc nhìn thấy cái tịch lặng sâu thẳm trong tiếng ve sầu ngấm vào đá núi. Không chỉ được xem như là nhà thơ nổi tiếng nhất thời kỳ Edo, ông còn là một thiền sư đã kiến tánh. Các tài liệu, trong đó có Wikipedia, ghi rằng ông có tên đầy đủ là Matsuo Bashō (Tùng Vĩ Ba Tiêu), sinh trong một gia đình samurai, và nổi tiếng làm thơ hay từ thời niên thiếu. Năm 1666, ông đến Kyoto và sống ở đây 5 năm, tiếp tục đọc văn học Nhật Bản cổ đại, nghiên cứu văn học Trung Quốc và cả thư pháp. Mùa xuân năm 1672, sau một thời gian về quê chừng vài tháng, ông dời lên sống ở Edo (nơi bây giờ có tên là Tokyo).  Trong những năm này, ông đã thử làm nhiều nghề khác nhau nhưng dần dần cảm thấy mình chỉ hợp với văn học, ông bắt đầu mở lớp dạy thơ haikai, một thể loại thơ trào lộng, nhẹ nhàng và phóng túng, vốn rất thịnh hành trong thời Tokugawa.

Sau khi theo học Thiền Tông với nhà sư Phật Đỉnh (Butchō), một Thiền sư dòng Lâm Tế, Ba Tiêu trải qua một số kinh nghiệm kiến tánh. Những kinh nghiệm giác ngộ được ông ghi lại trong những bài thơ, đặc biệt là những tác phẩm được hình thành trong thập niên cuối đời của ông. Năm 1682 ông dời về Koshu và từ đó lấy bút hiệu là Bashō (Ba Tiêu). Năm sau ông trở lại Edo và dựng lại "Ba tiêu am". Ba Tiêu sáng tạo ra một phong cách mới là Shōfu (Tiêu Phong), ẩn ý về đời người nghệ sĩ như những tàu lá ba tiêu bị xé tan trong gió những đêm giông bão), và dần dần hoàn thiện một loại thơ ngắn 17 âm tiết trong 3 câu 5+7+5 từ những câu đầu (hokku) của thể thơ renga và thể thơ cực ngắn ấy về sau được mọi người biết đến với cái tên đã trở thành bất hủ haiku. Hai bài thơ vừa dịch trên là làm theo thể haiku.

Đọc thơ Ba Tiêu, chúng ta có thể cảm nhận được cái tịch lặng vô cùng tận đã nằm sẵn trong chữ và bên kia chữ. Bất kỳ ai sống được cái tịch lặng trong từng chữ và bên kia chữ, đó chính là giải thoát, vì từng khoảnh khắc đó đã là bờ kia, là xa lìa tham sân si. Bạn có thể thử nghiệm thế này: bạn ngồi làm thơ, với một tờ giấy và cây bút đặt trên bàn, nghĩ tới một ý thơ hiện ra ngoài cửa sổ, thí dụ gió ngoài vườn thổi bay nghiêng làn mưa bụi, hay ánh trăng ló ra ngoài cửa sổ. Nếu không thấy ý thơ nào, bạn có thể nghĩ tới viết xuống giấy vài câu trong Bát Nhã Tâm Kinh. Bạn viết từng chữ nghĩ tới, và cảm nhận rằng cái-gọi-là-bạn đang chết đi theo dòng mực hiện ra lên trang giấy, bạn nghĩ rằng tim bạn sẽ ngừng đập ngay khi ngòi bút nhấc lên để ghi chữ khác. Như thế, bảo đảm rằng bạn sẽ kinh nghiệm được cái tịch lặng đang ngấm vào mắt tai mũi lưỡi thân ý và cũng ngấm trọn khắp ba cõi sáu đường. Đó cũng là Thiền.

Một nhà thơ Nhật Bản cũng ưa thích tịch lặng là Thiền sư Ryokan (1758 – 1831). Ryokan ra đời trong năm 1758, tại ngôi làng hẻo lánh ven biển Izumozaki, thuộc tỉnh Echigo, bây giờ gọi là Quận Niigata. Vùng này, Honshu phương bắc, còn đuợc gọi là “xứ tuyết,” nơi các trận tuyết mùa đông dày ngập tới nổi buộc cư dân phải rời nhà và vào lại nhà họ bằng tầng [lầu] thứ nhì. Quận cũng khét tiếng về một số trận động đất tệ hại nhất trong lịch sử Nhật Bản, và nổi tiếng với hòn đảo Sado dễ thương, nơi lưu đày loạn quân và là nơi có những mỏ vàng được các tướng quân khai thác. Cha của Ryokan, Inan (1738—95), là người được kế thừa cha truyền con nối làm trưởng làng, và là một tu sĩ Thần Đạo. Inan cũng là một nhà thơ mà vài người ghi nhận là có liên hệ xa với trường phái thơ hài cú Basho.

Ryokan làm sa di ở Kosho-ji, ngôi chùa Thiền Tào Động địa phương, trong nhiều năm. Khoảng năm 1780, thiền sư Kokusen (viên tịch 1791) viếng thăm Kosho-ji, và Ryokan, người cảm xúc thâm sâu vì cách sống nghiêm túc và chân thật của vị thầy, mới xin và được phép để chính thức trở thành môn đệ của Kokusen. Sau đó, họ cùng nhau trở về chùa Entsu-ji, ngôi tự viện của Kokusen tại Tamashima (bây giờ là Quận Okayama). Chùa Entsu-ji chỉ nhỏ thôi, dễ thương, gồm một hồ sen và rừng tre đẹp, nằm trên một ngọn đồi nhìn ra hải cảng Tamashima. (Hầu hết các khu nhà từ thời Ryokan bây giờ vẫn còn.) Tamashima là một trung tâm giao thương thịnh vượng, và chùa Entsu-ji đã lớn dậy dưới hướng dẫn của Kokusen, không bao giờ dưới 40 sư đang tu học. Cũng như vị thầy Kaso của Ikkyu, và vị thầy Shoju của Hakuin, Kokusen là một vị thầy có lối dạy cụ thể, người tuyên bố kiều Thiền của mình gồm cả việc “khiêng đá và đổ đất.” Nghĩa là, tu Thiền phải thực hiện ngay giữa các việc làm hàng ngày trong đời thường.

Với cương vị người nối pháp của Kokusen, một trong những vị Thiền sư Tào Động lớn nhất lúc đó, Ryokan có thể dễ dàng giữ chức trụ trì một chùa lớn, nhưng những năm tự nguyện sống khó nghèo và tự do trên các cánh đồng đã làm cho sư không thích bị ràng buộc với gánh nặng ngôi chùa. Không kế hoạch cụ thể nào trong đầu, Ryokan năm 40 tuổi về lại nơi mình ra đời, dọc đường vui với những nơi có cảnh đẹp và các nơi linh thiêng của Nhật Bản. Một lần, một tên trộm nhầm lẫn vào am Gogo-an, nhưng dĩ nhiên không thấy gì giá trị. Thất vọng, tên trộm mới lấy chiếc mền cũ và tả tơi và chiếc bồ đoàn thiền tọa của sư. Khi Ryokan về lại căn lều, thấy chuyện xảy ra mới viết bài thơ hài cú sau:

Tên trộm để lại phía sau—
mặt trăng
nơi cửa sổ.

Là một ẩn tu, Ryokan ngồi trên thiền sàng và sống nhiều phần hệt như các vị tổ sư Thiền xa xưa, tìm giác ngộ sâu trong các rặng núi. Sau đây là một bài thơ Ryokan tự ghi lại về nếp sống của ngài, ngồi tịch lặng, xài tiền của mục đồng (chăn trâu), làm bạn với ánh trăng.

Trong vắng lặng, bên cửa sổ trống
Ta ngồi thiền tọa, mặc phẩm phục trang nghiêm,
rún và mũi thẳng đường, tai song song với vai
Ánh trăng ngập cả phòng;
mưa đã ngưng, nhưng mái hiên còn nhỏ giọt.
Toàn hảo giây phút này—
trong tánh không vô tận, hiểu biết ta thẳm sâu.
.
Vào đêm, sâu trong núi, ta ngồi thiền
chuyện nhân gian không bao giờ tới đây;
tất cả đều vắng lặng và rỗng rang,
nhang đã tàn trong đêm vô tận
áo ta đã đẫm sương.
Không ngủ được, ta bước vào rừng—
đột nhiên, trên đỉnh cao, trăng tròn hiện.
.
Đời ta nghèo, nhưng tâm ta sáng tỏ
khi ta qua, ngày lại ngày
trong lều cỏ này.
.
Như dòng suối nhỏ len lỏi qua
các vách núi rêu, ta cũng lặng lẽ
trở thành sáng tỏ và trong trẻo.
.
Khi các niệm đã vắng cả rồi
ta lẩn vào rừng pháp và gom nhặt
một xấp tiền của mục đồng.
.
Rách rưới và tả tơi, rách rưới và tả tơi
rách rưới và tả tơi là đời này.
Lương thực? Rau cỏ dại bên đường.
những bụi cây mọc quanh lều ta.
trăng và ta thường ngồi chung cả đêm,
Và hơn một lần, ta đi lạc giữa rừng hoa dại,
quên lối về nhà.
Không ngạc nhiên gì, ta rời khỏi chúng:
làm sao một ông sư khùng như thế sống trong chùa?
              ----
RYOKAN (1758 – 1831)

.

Làm thế nào bước vào cõi tịch lặng? Đọc kỹ Kinh Phật, chúng ta sẽ thấy rất nhiều khi, Đức Phật chỉ nói có một lời thôi. Không nói nhiều, tất cả pháp đều đưa về một chữ thôi. Thí dụ, như Kinh Bahiya, tất cả các pháp tóm gọn về một chữ Như. Trong một chữ Như đã có sẵn đủ giới, định, huệ. Thí dụ khác, như với một số kinh trong Kinh Tập, phẩm Qua Bờ Kia, tất cả các pháp tóm gọn về một chữ Không. Trong cái nhìn của rỗng rang vô tướng, tất cả giới, định, huệ đã sẵn đủ, tròn đầy. Ngay cả khi chúng ta đứng ở một góc rừng, với mưa gào, gió thét, chúng ta vẫn thấy cái tịch lặng bao trùm tất cả và thấy tâm mình là Như, là Không.

Trong tận cùng của Phật Giáo, tịch lặng là nơi không thấy có một pháp nào để nương tựa. Đó cũng là khi Huệ Năng (638-713) dạy Huệ Minh rằng khi tâm rời các duyên (tức là: không dựa vào những cái được thấy, được nghe…), khi tâm không sanh một niệm (tức là: không một chữ nào dấy lên trong tâm), khi tâm không nghĩ thiện hay ác (cũng là: không nghĩ có/không, lành/dữ, ta/người…), thì sẽ hiện ra cái bao trùm và xuyên suốt hết tất cả lời và không-lời, ngôn và vô-ngôn, thanh và vô-thanh, và đó là cái tịch lặng vô cùng sâu thẳm. Độc giả có thể kinh nghiệm được, hãy cứ thử đơn giản như thế.

Trong Kinh Pháp Bảo Đản, bản dịch của Thầy Duy Lực, trích:

Huệ Minh đảnh lễ nói rằng: Mong hành giả vì tôi thuyết Pháp. Huệ Năng nói:Ông đã vì Pháp mà đến đây, thì nên ngưng nghỉ các duyên, chớ sanh một niệm, ta sẽ vì ông mà thuyết.

Một hồi sau Huệ Năng nói: Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, đang khi ấy cái nào là bổn lai diện mục của Thượng Tọa Minh? Huệ Minh ngay đó đại ngộ.
” (Phẩm Tựa Thứ Nhất)

Đối với Phật Giáo Tây Tạng, cửa vào tịch lặng là Sáu Lời Dạy của Đại sư Tilopa (988–1069) dạy cho Naropa. Còn gọi là sáu chữ của Mahamudra, Đại Thủ Ấn. Bản văn tiếng Sanskrit chỉ có 6 chữ, dịch sang tiếng Anh hay Việt cho rõ nghĩa sẽ là 6 câu ngắn.

Bản tiếng Anh của Ken McLeod là: “Don’t recall. Don’t imagine. Don’t think. Don’t examine. Don’t control. Rest.”

Có thể dịch ra tiếng Việt là: “Đừng gợi nhớ. Đừng tưởng tượng. Đừng suy nghĩ. Đừng khảo sát. Đừng kiểm soát. Hãy an nghỉ tự nhiên.”

Sáu lời dạy trên còn được dịch giả trên giải thích rõ hơn, có thể dịch ra tiếng Việt như sau: “Hãy buông bỏ những gì đã qua. Hãy buông bỏ những gì có thể sẽ tới. Hãy buông bỏ những gì đang xảy ra bây giờ. Đừng luận giải bất cứ gì. Đừng tìm cách làm bất cứ gì để xảy ra. Hãy buông thư, bây giờ, và an nghỉ.”

Và như thế, chúng ta sẽ thấy đúng là Kinh Nhật Tụng Sơ Thời, tức là các bản kinh chư tăng tụng hàng ngày trong các năm đầu Đức Phật hoằng pháp. Ngay khi nào bạn thực hiện 6 chữ như thế, cái tịch lặng vô ngôn sẽ hiện ra. Hãy giữ tâm như thế trọn ngày, sáng trưa chiều tối, không cần ngồi theo thời khóa nào.

Đúng vậy, cái tịch lặng thực sự không ở đâu xa. Trong Tăng Nhất A Hàm, Kinh EA 31.6, bản dịch của Thầy Tuệ Sỹ và Đức Thắng, có lời Đức Phật dạy:

“Xóm vắng là sáu xứ bên trong. Thế nào là sáu? Đó là nhãn xứ, nhĩ xứ, tỷ xứ, thiệt xứ, thân xứ, ý xứ. Nếu người có trí tuệ, khi quán mắt, thấy thảy đều trống không, không chỗ gì, hư dối, vắng lặng, không bền chắc. Khi quán tai, mũi, miệng, thân, ý, thấy đều trống không, đều rỗng lặng, cũng không bền chắc."

.

Một nhà thơ Nhật Bản khác cũng ưa thích viết về tịch lặng là Jakushitsu Genkō (1290-1367). Jakushitsu là một nhà sư dòng Lâm Tế (Rinzai), cũng nổi tiếng là một nghệ sĩ với tài làm thơ, thổi sáo, và là trụ trì ngôi chùa Eigen-ji, nơi được xây lên để dâng cúng cho sư làm nơi dạy Thiền. Sinh trong một gia đình quý tộc, xuất gia năm 12 tuổi tại tu viện Tofukuji ở Kyoto, nơi nổi tiếng về giáo dục; những năm đầu ở đây, nhà sư trẻ học về Nho Giáo và Thiên Thai Tông, một hệ thống lý luận của Phật Giáo. Trong một chuyến tới thăm Tanakami, một thị trấn trong tỉnh Go (bây giờ có tên là tỉnh Shiga), Jakushitsu nhìn thấy một nhà sư đang lặng lẽ ngồi thiền. Hình ảnh lặng lẽ ngồi thiền của nhà sư lạ kia có sức lôi cuốn bí mật. Ngồi thiền lặng lẽ không phải là một phần trong pháp tu hàng ngày tại ngôi chùa Jakushitsu đang theo học, nơi chủ yếu đào tạo các giảng sư và luận sư Phật Giáo.

Được giới thiệu từ một vị sư đồng học ở Tofukuji, Jakushitsu biết về Thiền sư Yakuo Kenko, người từng theo học với Lan-chi Tao-lung (tiếng Nhật là: Rankei Doryu) một Thiền sư Trung Hoa từ Szechuan tới Nhật Bản năm 1246 để truyền pháp Thiền Tông. Jakushitsu cùng với bạn đồng học lên đường tới Zenkoji, ngôi chùa tại Kamakura, nơi Yakuo lúc đó đang cư ngụ. Truyền thuyêt kể rằng vào đêm trước khi Jakushitsu tới Zenkoji, Thiền sư Yakuo có một giấc mơ, trong đó “nhiều vị thánh đáp xuống và một vùng ánh sáng hiện ra chiếu rọi khắp núi và sông.” Do vậy, Yahuo mới đặt tên cho Jakushitsu là Genko, tức là “Ánh sáng nguyên khởi.”

Jakushitsu thân cận với Thầy Yakuo cho tới khi Yakuo từ trần năm 1320. Jakushitsu sang Trung Quốc để tìm học Thiền trong thời gian từ 1320 tới 1326, với vị Thầy có hạnh ẩn tu nổi tiếng là Ming-pen. Khi về lại Nhật Bản, Jakushitsu vào núi, sống nhiều năm trong hạnh ẩn tu. Phong thái kỳ dị, và những bài thơ đầy sức mạnh của Thiền đã làm cho nhà sư Jakushitsu nổi tiếng. Một vị lãnh chúa địa phương mời sư ra dạy Thiền cho công chúng, xây ngôi chùa có tên là Eigen-ji và Jakushitsu là vị trụ trì đầu tiên nơi đây.

Mấy dòng thơ sau đây là Jakushitsu tự viết về bản thân:

Cô tịch
vui hỷ lạc
tóc trắng nhìn núi xanh.

Một bài thơ khác, cũng do Jakushitsu tự viết về hạnh sống trong các rặng núi. Dịch như sau.

Không tìm danh vọng
không màng khó nghèo
sống ẩn sâu trong núi
xa lìa bụi thế gian
năm hết rồi, bầu trời lạnh
ai sẽ làm bạn với ta?
Hoa đào nở trên cành mới
tắm trong ánh trăng.

.

Trong khi đó, có những bài thơ rất cổ, có từ 2500 năm về trước, ngợi ca hạnh tịch lặng, một trong các phẩm chất của người ngộ đạo. Bài thơ của Trưởng lão ni Sona có ký số Thig 5.8, trích dịch như sau:

Tôi thiền tư về vô tướng
với nhất tâm và tịch lặng
tức khắc giải thoát thành tựu
Niết bàn, không gì nắm giữ
.
Hiểu trọn năm uẩn thấu suốt
tuy còn đây, rễ đã cắt
Bà già bất hạnh, thân tôi
chuyện tái sanh đã hết rồi
.
.

Tuy nhiên. Tịch lặng không chỉ là ngồi thiền. Một bài thơ của Trưởng lão tăng Bhagu trong bài kệ có ký số Thag 4.2, ghi rằng đại sư Bhagu ngồi thiền, gặp cơn buồn ngủ, mới bước ra khỏi lều, đi kinh hành, khi bước đi, bị vấp té, rồi đứng dậy phủi bụi, rồi đi tiếp, niềm tịch lặng khởi lên trong khi đại sư bước tới bước lui, và rồi tâm đạt giải thoát, chứng tam minh. Bài thơ kể về niềm tịch lặng đạt được trong khi bước đi, trích như sau.

Buồn ngủ, tôi rời tịnh xá
bước thiền hành, chân vấp ngã
Phủi bụi xong, bước đi tiếp
lối thiền hành, tới rồi lui
tịch lặng sâu thẳm trong tôi.
Hốt nhiên chứng ngộ ngập tràn
thấy rõ ba cõi hiểm nguy
vững vàng với tâm viễn ly
Hiển lộ trong tâm giải thoát
thấy rõ tối thượng giáo pháp
Tam minh bây giờ hoàn tất
trọn vẹn như lời Đức Phật.

Tịch lặng, đẹp là như thế, hiện ra ngay ở nơi bạn đi đứng nằm ngồi, ngay ở nơi bạn chọn chữ làm thơ, ngay ở nơi sâu thẳm trong tâm và ngập tràn khắp thế giới này. Tịch lặng là Niết Bàn. Hãy lắng nghe tịch lặng, hãy tắm gội trong tịch lặng, hãy thấy tịch lặng đang ngấm vào núi đá, vào cây rừng, vào khắp không gian và khắp mắt tai mũi lưỡi thân ý của mình.  Nó đó. Vô tướng, không hình dạng, không màu sắc. Tịch lặng không phải là cái được tạo ra, nhưng là cái có sẵn chưa hề rời chúng ta, ngay ở đây và bây giờ.

 

PHOTO:

 Cội nguồn thơ nơi vô cùng tịch lặng-RyokanCội nguồn thơ nơi vô cùng tịch lặng-Jakushitsu_GenkoCội nguồn thơ nơi vô cùng tịch lặng-Huineng Hue NangCội nguồn thơ nơi vô cùng tịch lặng-basho




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/04/2020(Xem: 6184)
Nhiều người trong chúng ta đang vật lộn với phản ứng của chúng ta, trước những khổ đau của quốc gia dân tộc và thế giới. Chúng ta có thể làm gì khi đối mặt với nghèo đói, bệnh tật, chiến tranh, bất công và tàn phá môi trường? Theo dòng thời sự, thật dễ dàng để tuyệt vọng, trở nên hoài nghi hoặc tê liệt. Hướng về phía nó là cách tiếp cận của Phật giáo đối với sự đau khổ chung này. Chúng ta hiểu rằng, hạnh phúc và thực sự ý nghĩa sẽ đến, thông qua xu hướng khổ đau. Chúng ta vượt qua tuyệt vọng của chính mình, bằng cách giúp đỡ người khác vượt qua mọi chướng nạn khổ đau.
23/04/2020(Xem: 5491)
Trước khi vào bài viết, chúng ta tìm hiểu ý nghĩa về từ ngữ an cư: an cư theo tiếng Phạn là Varsa hay Vassa, là mùa mưa. Tàu dịch: vũ kỳ hay vũ an cư (an cư mùa mưa) vì là mùa mưa tại Ấn Độ, “an” là an tịnh nội tâm, “cư” là kỳ hạn cư trú tu tập, trong suốt thời gian nhất định nào đó. An cư cũng có nghĩa là ‘an kỳ tâm, cư kỳ thân’, tức thân ở yên một chỗ và tâm được an lạc, thanh tịnh gọi là an cư. Như vậy Mùa An Cư tức là mùa ở yên một chỗ (còn gọi là cấm túc) để tĩnh tâm tu tập. Thời gian khi Phật còn tại thế và tại Việt Nam hiện nay là Chư Tăng an cư 3 tháng vào mùa hạ, từ rằm tháng 4 đến rằm tháng 7, còn Tăng Già các nước ở Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Úc…thì đa số là “nhất Tăng nhứt tự” lại xa xôi cách trở nên tùy vào từng quốc độ mà tập trung an cư trong 10 ngày, sau đó trở về trụ xứ tiếp tục tâm niệm an cư cho đến khi giải hạ.
23/04/2020(Xem: 6231)
Trưởng lão Thiền sư Biography of Phra Dhammongkolyarn (Luangphor Viriyang Sirintharo) tuổi bách tuế dư niên đại thọ, nhưng sức khỏe về thể chất và tinh thần vẫn tuyệt hảo, Ngài tiếp tục giảng dạy tu tập thiền định cho cả công dân Thái Lan và người nước ngài. Ngài đương nhiệm Phương trượng trụ trì ngôi già lam Wat Dahammamongkol tại thủ đô Bangkok, Vương quốc Phật giáo Thái Lan, đã tổ chức mừng sinh nhật đại thọ cho Ngài vào ngày 7/1 vừa qua.
22/04/2020(Xem: 5834)
Trong thời kỳ nghiêm trọng bởi đại dịch hiểm ác Virus corona chủng mới, “việc này Tôn giáo có thể cùng sẻ chia - 宗教能提供哪些服務”, đáp ứng nhu cầu san sẻ trong từ bi tâm, lòng bác ái bao la là quan tâm hàng đầu của cộng đồng tôn giáo. Buổi “Tọa đàm toàn diện giữa Phật giáo và Thiên Chúa giáo- National Buddhist-Christian Dialogue -全美佛教與基督教座談” được tổ chức trực tuyến tại Phật Quang Sơn Tây Lai Tự, Los Angeles, Hoa Kỳ vào ngày 15/4/2020.
21/04/2020(Xem: 8848)
Đức Phật khuyên con người nên diệt trừ ái dục. “Ái” là thích, thương yêu, mến tiếc, luyến ái, tham ái bám víu. “Dục” là ham muốn, tham dục, lạc dục. Ái dục là lòng ham muốn, luyến ái, bám víu, tham hưởng mọi sự sung sướng thường tình đối với người và đối với vật. Có ba loại ái dục: 1. Ái dục theo nhục dục “ngũ trần”: Năm cảnh trần là “sắc, thanh, hương, vị, xúc”. Trần là bụi dơ. Ngũ trần là năm cái có thể thấm bụi dơ vào thân tâm ta, vào chân tính của ta. 2. Ái dục đeo níu theo khoái lạc vật chất, theo quan niệm “đoạn kiến”, nghĩ rằng chết là hết, nên không cần quan tâm đến thiện ác, tội phước, quả báo gì cả, cứ lo hưởng thụ lạc thú vật chất và sự giàu sang hiện tại. 3. Ái dục đeo níu theo khoái lạc vật chất, theo quan niệm “thường kiến”, nghĩ rằng những lạc thú và tài sản sẽ còn với mình mãi mãi, lâu dài vĩnh cửu, trường tồn.
21/04/2020(Xem: 7297)
Hôm thứ Hai, ngày 20/4/2020, Mạng lưới Phật giáo Dấn thân Quốc tế (The International Network of Engaged Buddhists, INEB) đã tuyên bố công khai trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng toàn cầu do đại dịch Virusconrona gây ra, kêu gọi tất cả mọi người, các quốc gia vùng lãnh thổ và chính phủ, bất kể nền tảng tôn giáo hoặc cá biệt văn hóa chủng tộc hoặc liên kết chính trị, nhận ra tính chất liên kết và “Toàn cầu hóa và sự phụ thuộc lẫn nhau”. Nhân loại là cơ sở cho một phản ứng toàn cầu thống nhất đối với cuộc khủng hoảng, đã gây nguy hiểm đến hàng triệu người trong các cộng đồng dễ bị tổn thương trên toàn thế giới.
21/04/2020(Xem: 5715)
Phật giáo là Tông giáo theo quan niệm cổ xưa, trước đây bị người đời ngộ nhận cho là mê tín. Xem từ trên phương diện bề ngoài, nó xác thực là đã khoác lên trên nó sắc thái tông giáo rất sâu nặng. Người ta xem thấy tượng Phật trang sức bằng vàng, nghe đến tụng kinh bằng tiếng Phạn với tiếng chuông và tiếng khánh, nếu có ai hỏi đến, họ đều khăng khăng trả lời là lễ bái nhằm mục đích tỏ lòng tôn kính thần tượng; người ta lại xem thấy sự sinh hoạt của tăng chúng trong tự viện liền khăng khăng vu khống cho chúng nó là ký sanh trùng trong xã hội.
20/04/2020(Xem: 5325)
Các giám đốc chi nhánh của Trung ương Hiệp hội Sinh viên Phật tử Indonesia (HIKMAHBUDHI) thành phố Tangerang đã tiến hành một loạt các phong trào Nhân đạo và xuất phát ra quân vào ngày 10 đến ngày 12 tháng 4 năm 2020, để giúp giảm thiểu nỗi đau thương bởi đại dịch Covid-19 và các biện pháp phòng ngừa dịch bệnh lây lan.
19/04/2020(Xem: 5853)
Đại Đế Nã Phá Luân, vị tướng lừng danh của nước Pháp, người từng lập bao chiến công oanh liệt, đã tuyên bố một câu bất hủ, qua những kinh nghiệm chính bản thân: “Có hai sức mạnh trên thế giới, đó là sức mạnh của Thanh Gươm và sức mạnh của Tấm Lòng. Cuối cùng thì Tấm Lòng luôn đánh bại Thanh Gươm” Là con Phật, chúng ta hiểu, Tấm Lòng ở đây là Lòng Từ Bi, là sự tử tế với nhau, là những viên minh châu trong Tứ Vô Lượng Tâm gồm Từ, Bi, Hỷ,Xả mà chúng ta được thọ nhận để học hỏi, để tu trì.
19/04/2020(Xem: 5906)
Dường như đường đê mỗi lúc mỗi hẹp! Lại quanh co nữa! Lạ thay, lẽ ra tới đây lữ khách đã phải nhìn thấy ngã ba, có cây đa cổ thụ, có bụi tre mạnh tông cao vút mướt xanh, dẫn vào thôn Phương Viên, làng Đan Phượng rồi chứ? Lữ khách tự nhủ “Lâu qúa, không được về thăm quê nội nên cảnh trí đổi khác chăng? Cố lên! Ráng thêm chút nữa sẽ thấy đường rẽ vào làng mà!” Nhưng mây đen bỗng từ đâu kéo tới, rồi nước sông dâng cao, dâng cao… ….Nước từ sông Hồng cuồn cuộn dâng cao, như rượt đuổi bước chân siêu vẹo của kẻ phương xa, tìm về thăm quê cũ … Rồi, ầm! ầm! Mưa bão trút xuống cùng lúc với bờ đê mong manh vỡ tan, sụp đổ … Lữ khách nghe tự đáy lòng mình bật lên hai tiếng thảm thiết “Mẹ ơi!”
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]