Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

PG Tây Tạng: Nguồn Năng lượng, Sức mạnh, Chính sách Ngoại giao, Quyền lực mềm của Ấn Độ

11/12/202021:35(Xem: 5587)
PG Tây Tạng: Nguồn Năng lượng, Sức mạnh, Chính sách Ngoại giao, Quyền lực mềm của Ấn Độ

PG Tây Tạng: Nguồn Năng lượng, Sức mạnh,
Chính sách Ngoại giao, Quyền lực mềm của Ấn Độ

(Tibetan Buddhism: A Source and Strength of India’s Soft Power Diplomacy)

 PG Tây Tạng Nguồn Năng lượng Sức mạnh Chính sách Ngoại giao Quyền lực mềm của Ấn Độ

Mối quan hệ giữa Tây Tạng, Ấn Độ và Trung Quốc được minh họa rõ nhất qua lời của tác giả, nhà báo, nhà sử học và nhà tây tạng học, Cư sĩ Claude Arpi, người Pháp, người đã viết một loạt các tác phẩm quan trọng về Tây Tạng, Ấn Độ và Trung Quốc, bao gồm “Số phận Tây Tạng: Khi Những Côn trùng lớn ăn thịt Côn trùng bé; The Fate of Tibet: When the Big Insects Eats Small Insects”.

 

Cư sĩ Claude Arpi viết:

 

“Trong lịch sử rất thú vị của ba quốc gia, Tây Tạng và Trung Quốc luôn có mối quan hệ dựa trên lực lượng và sức mạnh, trong khi Tây Tạng và Ấn Độ có nhiều hơn mối quan hệ văn hóa và tôn giáo dựa trên các giá trị tinh thần chung”.

 

Với những lời của Cư sĩ Claude Arpi ở trên hình ảnh làm nền, có thể nói rằng sự tương đồng giữa Ấn Độ và Tây Tạng lớn hơn nhiều so với bất kỳ quốc gia láng giềng nào khác trên thế giới. Những món quà lớn nhất của Ấn Độ đối với Tây Tạng là Phật giáo và chữ viết Tây Tạng. Cả Phật giáo Tây Tạng và văn tự Tây Tạng đều có nguồn gốc, và sự phát triển của chúng nhờ những đóng góp to lớn, từ các vị Đại sư và học giả nổi tiếng của Ấn Độ. Món quà lớn nhất của Tây Tạng đối với Ấn Độ là sự bảo tồn và phát triển của Phật giáo, dựa trên truyền thống Đại học Phật giáo Nalanda. Theo Đức Đạt Lai Lạt Ma, cách giải thích tốt nhất về truyền thống Phật giáo, dựa trên các vị Đại sư đã tốt nghiệp từ Đại học Phật giáo Nalanda, chỉ có bằng ngôn ngữ Tây Tạng. Như vậy, nó thể hiện sự gắn bó và kết nối bền chặt bởi quá khứ giữa hai quốc gia này.

 

Các vị học giả và Đại sư Ấn Độ đã đóng góp to lớn vào sự phát triển của Phật giáo ở Tây Tạng. Do đó, không có gì lạ, khi cơ sở tự viện Phật giáo Tây Tạng đầu tiên là Tu viện Samye (བསམ་ ཡས་, 桑耶寺), tên đầy đủ là Samye Mingyur Lhungyi Drupe Tsuklakhang, tọa lạc ở chân núi Haibu Rishen, phía bắc sông Yarlung Tsangpo, được mô phỏng theo Odantapuri Tsuklakhang, Bihar, một bang ở miền đông Ấn Độ, chính thức được sự bảo trợ của vị anh minh Hoàng đế Tây Tạng  Trisong Detsen (755-798 sau Tây lịch) và được xây dựng dưới sự hướng dẫn của Hiền triết Tịch Hộ (寂護, Shantarakshita, 750-802), là một Cao tăng Ấn Độ thuộc Trung quán tông, trụ trì Tu viện Nalanda, người truyền bá Phật pháp sang Tây Tạng thời kỳ đầu và Đức Đại sĩ Liên Hoa Sinh (Padmasambhava), nhân vật huyền thoại của thế kỷ thứ 8 tại Ấn Độ, bậc thầy tantric (Mật tông) trong Phật giáo, người sáng lập nên Phật giáo Tây Tạng và là cha đẻ của Vật lý lượng tử, người được cho là đã đưa Phật giáo Kim Cương thừa đến Tây Tạng và Bhutan. Ngày nay ngài được tôn kính là một trong những tổ sư vĩ đại nhất của Phật giáo Tây Tạng và là người và sáng lập nên tông Ninh Mã, một trong bốn tông phái lớn của Tây Tạng và được các đệ tử tôn vinh là “Phật thứ hai”. . . các vị thánh tăng này đã tạo tiền đề cho việc nghiên cứu Phật học và giáo dục đào tạo tăng tài.

 

Trong cùng thời gian, đã có cuộc tranh luận lớn giữa Đại sư Liên Hoa Giới (Pandita Kamalasila, 740-795), một vị học trò của Thánh tăng Tịch Hộ và một vị tăng sĩ Phật giáo Đại thừa từ Trung Hoa. Chủ đề chính cuả cuộc tranh luận của họ xoay quanh hành trình tu chứng đạt đến giác ngộ. Cuộc tranh luận kéo dài thời gian hai năm (792-794). Cuối cùng, Đại sư Liên Hoa Giới được tuyên bố là người chiến thắng, và Ngài đã được vị tăng sĩ Trung Hoa thuộc Phật giáo Đại thừa tặng một vòng hoa. Cuối cùng, Triều đình ban Thánh chỉ rằng, giáo lý được trình bày rõ ràng bởi các vị học giả Ấn Độ phải được nghiên cứu và tuân theo ở Tây Tạng. Sắc lệnh của vị anh minh Hoàng đế Trisong Detsen tuyên bố Vương quốc Tây Tạng, “Đạo Phật Quốc giáo”. Kể từ đó, nhân dân Tây Tạng theo Phật giáo Ấn Độ được phát triển theo tôn chỉ của Đại học Phật giáo Nālandā, một trung tâm học tập bậc cao thời cổ đại, một tu viện Phật giáo lớn nằm ở vương quốc cổ Magadha, ngày nay thuộc tiểu bang Bihar, Ấn Độ. Ngày nay, Đại học Phật giáo Nālandā là một Di sản thế giới được UNESCO công nhận từ năm 2016. Sự kiện này đã chứng thực những đóng góp sâu sắc của các vị học giả, và bậc thầy Ấn Độ trong sự phát triển của Phật giáo Tây Tạng, cũng như sự tinh tế và uyên bác của họ trong cuộc tranh luận triết học tôn giáo.

 

Thời gian trôi qua, dưới sự hướng của các vị học giả và đại sư Ấn Độ, các dịch giả người Tây Tạng đã có thể dịch một số lượng lớn các văn bản Phật giáo về phép biện chứng sang ngôn ngữ Tây Tạng. Công việc dịch thuật của các dịch giả Phật giáo Tây Tạng rất phong phú và đồ sộ, đến nỗi học giả nổi tiếng, chuyên khoa ngôn ngữ Bengal (বাংলা), Thánh tăng Nhiên Đăng Cát Tường Trí vĩ đại người Đông Ấn (982-1054), Viện trưởng Đại học Phật giáo Vikramshila, (một trong hai trung tâm học tập bậc cao của Phật giáo ở Ấn Độ trong thời Đế quốc Pala; trung tâm kia là Nālandā) đã đóng góp rất nhiều trong việc truyền Phật giáo sang Tây Tạng, khi đến thăm Tu viện Samye, Ngài đã tìm thấy nhiều bản thảo Ấn Độ, và Ngài đã phát hiện nhiều bản viết tay không có trong Ấn Độ. Rất ấn tượng và hài lòng với kho lưu trữ phong phú của bộ sưu tập, Thánh tăng Ấn Độ, Nhiên Đăng Cát Tường Trí nói rằng: “Rõ ràng cho thấy giáo lý từ bi trí tuệ đạo Phật đã được truyền bá lần đầu tiên ở Tây Tạng, thậm chí còn nhiều hơn ở Ấn Độ”.

 

Tầm quan trọng của Phật giáo Tây Tạng đối với Quyền lực mềm (Soft Power) của Ấn Độ

 

Tại Ấn Độ hiện nay có khoảng 281 cơ sở tự viện Phật giáo Tây Tạng, cũng là những cơ sở giáo dục đào tạo Phật giáo nâng cao. Bởi hàng năm có đến hàng triệu người từ khắp nơi trên thế giới, hành hương chiêm bái thánh tích Phật giáo Ấn Độ, trong đó có Phật giáo Tây Tạng và Đức Đạt Lai Lạt Ma.

 

Ví dụ, vào đầu năm 2005, Bihar, một bang ở miền đông Ấn Độ, tổng số lượt du khách thập phương nước ngoài đến thăm Bihar, vùng miền đông Ấn Độ là 64.114 lượt khách. Ngoài ra, tổng số lượt du khách nước ngoài đến hành hương chiêm bái Thánh tích Phật giáo là 45.149 lượt du khách, và tổng số lượt du khách thập phương hành hương nước ngoài đến các điểm không theo đạo Phật là 18.965 lượt du khách.

 

Tóm lại, du khách nước ngoài chiếm gần 7% lưu lượng truy cập tại các điểm đến theo đạo Phật, và chưa đến 1% ở các điểm không theo đạo Phật.

 

Trong những năm 2017-2018, tổng số lượt du khách ngoại quốc đến Bihar là 108.797 lượt du khách. Trong số 36 bang và lãnh thổ liên hợp, Bihar được xếp ở vị trí thứ 9, đánh bại điểm đến du lịch nổi tiếng như Goa, một tiểu bang của Ấn Độ nằm ở vùng duyên hải tên Konkan tại miền Tây Ấn Độ.

 

Thật trùng khớp, vào tháng 1 năm 2017, Thánh lễ Kalachakra của Phật giáo Tây Tạng được tổ chức tại Bồ đề Đạo tràng bởi Đức Đạt Lai Lạt Ma. Theo một trang web chính thức của Văn phòng riêng của Đức Đạt Lai Lạt Ma, Thánh lễ Kalachakra của Phật giáo Tây Tạng đã thu hút khoảng 200.000 lượt người, bao gồm cả du khách thập phương hành hương trong và ngoài nước. Theo số liệu của bộ phận du lịch Bihar, tháng 1, có đến 75.250 du khách nước ngoài đến Bồ đề Đạo tràng, đây là số lượng du khách nước ngoài đến thăm cao nhất trong các tháng của năm 2017.

 

Mặt khác, từ ngày 8 đến 28 tháng 1 năm 2018, khoảng 18 buổi pháp thoại do Đức Đạt Lai Lạt Ma tuyên thuyết Diệu pháp Như Lai tại Bồ đề Đạo tràng. Vào tháng 12 năm 2018, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã liên tục chia sẻ giáo lý từ bi, trí tuệ, tự do, bình đẳng của đạo Phật suốt thời gian 10 ngày. Qua đó, tháng 1/2018 có đến 57.928 lượt du khách nước ngoài đến hành hương Chiêm bái Phật tích Bồ đề Đạo tràng, một lần nữa đây là lượt du khách nước ngoài đến thăm cao nhất trong các tháng của năm 2018. Trong tháng 12 năm 2018, số lượt du khách nước ngoài đến Bồ đề Đạo tràng là 29.328 lượt du khách, thu hút lượng khách du lịch nước ngoài cao thứ 4 trong năm 2018.

 

Tóm lại, chỉ tính riêng trong năm 2018, tổng số lượt du khách nước ngoài đến thăm Bihar là 270.787 lượt du khách, và tổng lượt khách du lịch nước ngoài đến thăm trong tháng 1 và tháng 12 là 87.256 lượt du khách.

 

Giáo sư Daya Kishan Thussu, học giả, Giáo sư Truyền thông Quốc tế và Đồng Giám đốc Trung tâm Truyền thông Ấn Độ tại Đại học Westminster ở London, giảng dạy tại Đại học Baptist Hồng Kông, Hồng Kông, Đại học Westminster, Vương quốc Anh, Cao đẳng Schwarzman, Đại học Thanh Hoa, Bắc Kinh, và học giả Shantanu Kishwar, nhà nghiên cứu liên kết với Tổ chức Tầm nhìn Ấn Độ, tập trung vào các nghiên cứu lịch sử và văn minh, nói về sự hồi sinh của các địa điểm Phật giáo và hình ảnh Ấn Độ trong cộng đồng Phật giáo toàn cầu, nhờ có sự hiện diện của Đức Đạt Lai Lạt Ma và người dân Tây Tạng.

 

Do đó, chỉ trong vòng 2 tháng, Phật giáo Tây Tạng đã thu hút đủ lượng du khách nước ngoài. Người viết tin rằng, xu hướng này có thể được theo sau một cách hiệu quả trên khắp các địa điểm hành hương chiêm bái Phật tích Ấn Độ. Bởi vì khi công nghệ ngày càng trở nên phức tạp, con người cần tìm đến niềm an ủi ở một người mà họ có thể tìm thấy nơi nương tựa tinh thần. Phật giáo có tiềm năng lấp đầy khoảng trống tâm linh này trong tương lai.

 

Thuyết minh về Chiến thuật: Quyền lực mềm và Quyền lực cứng

 

Tác giả, nhà báo Greg Bruno đã có gần hai thập kỷ sống và làm việc tại các vùng Tây Tạng, tác phẩm của ông “Phúc lành từ Bắc Kinh: Bên trong Chiến thuật Quyền lực mềm của Trung cộng đối với Tây Tạng, Blessings from Beijing: Inside China’s Soft Power War on Tibet”, xuất bản năm 2018 đã tiết lộ rằng, với 13,1 triệu người theo dõi, Đức Đạt Lai Lạt Ma nổi tiếng trên Twitter, cộng lại hơn các vị Tổng thống các quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ, Pháp và Israel. Hiện tại, Đức Đạt Lai Lạt Ma có 19,3 triệu người theo dõi trên Twitter của Ngài (@DalaiLama).

 

Nội dung “Phúc lành từ Bắc Kinh: Bên trong Chiến thuật Quyền lực mềm của Trung cộng đối với Tây Tạng. Tóm gọn rằng: “Khi chúng ta gần đến Kỷ niệm 60 năm Ngày Trung cộng xâm lược, cưỡng chiếm Tây Tạng năm 1959, và sự thành lập sau đó của cộng đồng người Tây Tạng lưu vong, câu hỏi về sự sống còn của người dân Tây Tạng ở hải ngoại hiện còn rất nhiều. Chính sách đối ngoại của nhà cầm quyền ĐCSTQ đã trở nên mạo hiểm hơn, đặc biệt là kể từ sau Thế Vận hội mở rộng năm 2008. Khi áp lực ngày càng gia tăng, các gia đình tỵ nạn Tây Tạng đã lập gia đình bên ngoài Trung Quốc, ở vùng núi Nepal, rừng rậm Ấn Độ, hoặc những ngôi nhà bê tông đèo heo trên đỉnh cao, tu viện của Đức Đạt Lai Lạt Ma di cư một lần nữa ở Dharamsala, miền bắc của bang Himachal Pradesh, Ấn Độ. Những lời chúc Phúc từ nhà cầm quyền ĐCSTQ tháo gỡ sợi dây trói buộc người Tây Tạng với Trung Quốc, và xem xét các áp lực chính trị, xã hội và kinh tế đang đư dọa tiêu diệt các cộng đồng tỵ nạn Tây Tạng.

 

Người viết này nhận thấy rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma có nhiều người theo dõi hơn số lượng người theo dõi kết hợp của Twitter, xử lý những người theo dõi các ban tuyên truyền của nhà cầm quyền Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ): Thời báo Hoàn cầu, Nhật báo Trung Quốc, Nhân dân Nhật báo Trung Quốc, Bà Hoa Xuân Oánh, Phó Vụ trưởng Vụ Thông tin Bộ Ngoại giao Trung Quốc, nữ phát ngôn viên thứ năm của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc, Triệu Lập Kiên, Đại sứ Trung Quốc và tài khoản chính thức của Đại sứ quán tại các quốc gia Anh, Mỹ, Ấn Độ, Nepal, Pakistan, Afghanistan, Ai Cập và Áo. Diễn biến này cho thấy, trong lĩnh vực ngoại giao quyền lực mềm, Khôi nguyên Nobel hòa bình, lãnh đạo tinh thần Tây Tạng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đang rất xuất sắc trong cuộc chiến chống lại nhà cầm quyền Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ).

 

Cư sĩ Thubten Samphel, nguyên Viện trưởng Viện Chính sách Tây tạng (CTA), Dharamshala, và cũng là một nhà bình luận phong phú về các vấn đề lên quan đến Tây Tạng, và Trung Quốc trong chuyên khảo của ông, “Nghệ thuật bất bạo động”, ông viết: “Về số phận chung của Tây Tạng, nhà cầm quyền Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) có thể thắng trong cuộc chiến, nhưng trong trận chiến cụ thể này, quyền lực mềm của Tây Tạng đang tạo ra những bước tiến lớn trong việc thuyết phục ngày càng nhiều học giả, và nhà văn Trung Quốc kể câu chuyện về Tây Tạng cho khán giả Trung Quốc”. Ông nói thêm rằng: “Khả năng người Tây Tạng kể câu chuyện của học một cách thuyết phục với người Trung Quốc, có thể quyết định kết quả của chính câu chuyện”.

                                                                                              

Do đó, quyền lực mềm của Tây Tạng chiến thắng, cũng là quyền lực mềm của Ấn Độ chiến thắng. Để làm cho quyền lực mềm cuộn một cách hiệu quả, người ta cần phải đặt nền móng cho tương lai. Một vài điều Chính phủ Ấn Độ (GOI) có thể làm để củng cố cơ sở cho chính sách ngoại giao bởi quyền lực mềm của mình, là cung cấp khuyến khích học bổng cho các sinh viên Ấn Độ, quan tâm đến việc học tiếng Tây Tạng. Bởi vì hầu như tất cả tinh hoa phong phú của truyền thống Phật giáo dựa trên Đại học Phật giáo Nalanda, chỉ có trong ngôn ngữ Tây Tạng.

 

Để có hiệu quả trong điều này, cần khuyến khích các sinh viên Ấn Độ quan tâm học tiếng Tây Tạng càng sớm càng tốt. Nếu không hiểu biết về ngôn ngữ Tây Tạng, rất khó để hiểu khái niệm Phật giáo Tây Tạng. Và nếu không có kiến thức toàn diện về Phật giáo Tây Tạng, khó có thể hiểu được truyền thống Phật giáo của Đại học Phật giáo Nalanda, và khơi dậy chính sách ngoại giao quyền lực mềm của Ấn Độ. Người viết này nghĩ rằng, bây giờ Chela (đệ tử) trung thành đang ở trong một vị trí để tri ân Guru Dakshina của mình (Đại khái nó ám chỉ truyền thống tri ân báo ân Thầy Tổ) dưới hình thức thuyết giảng và giảng dạy Phật giáo Tây Tạng và ngôn ngữ Tây Tạng. Đối với người bắt đầu, Chính phủ Ấn Độ (GOI) có thể sử dụng thí điểm các nguồn giáo viên dạy tiếng Tây Tạng ở mỗi bang. Và đặc biệt hơn nữa, họ có thể được tuyển dụng trong các địa điểm cơ sở tự viện Phật giáo.

 

Đối với trình độ nâng cao, hiện nay có rất ít Học viện Tây Tạng giảng dạy ngôn ngữ Tây Tạng, Văn học Tây Tạng và triết học Phật giáo. Đó là Viện Nghiên cứu Tây Tạng Trung Ương, Varanasi, Trường Cao đẳng Nghiên cứu Tây Tạng (Sarah), Dharamshala,Viện Đạt Lai Lạt Ma về Giáo dục Đại học, Bangalore, Viện Amnye Machen, Dharamshala (một trung tâm dựa trên nghiên cứu hiện được quản lý bởi Cư sĩ Tashi Tsering, một nhà Tây Tạng học, sử gia và nhà văn, giám đốc sáng lập của Viện Amnye Machen), và Thư viện Songtsen (Trung tâm Nghiên cứu Tây Tạng và Himalaya) ở Dehradun, bắc Ấn Độ.

 

Một điều khác mà Chính phủ Ấn Độ (GOI) có thể làm là đặt nền móng và thành lập Thư viện Phật giáo chuyên dụng lớn nhất thế giới, điều này có thể làm nên điều kỳ diệu trong việc thu hút các học giả, giáo viên và hàng triệu Phật tử trên khắp thế giới. Trong phần này, cả Chính phủ bang Bihar và Trung Ương đều là các bên liên quan. Thư Viện Lưu Trữ Kinh Điển Tây Tạng (LTWA) đã và đang thực hiện nhiều dịch vụ to lớn, và thu hút hàng nghìn học giả, sinh viên trên khắp thế giới. Thư Viện Lưu Trữ Kinh Điển Tây Tạng (LTWA) và thư viện Songtsen Library, Dehra Dun, Ấn Độ có thể là hình mẫu cho việc thành lập (các) Thư viện Phật giáo trong tương lại tại Ấn Độ.

 

Phật giáo Tây Tạng trong Thời đại Sáng kiến Vành đai và Con đường

 

Tính hợp pháp hiện tại của nhà cầm quyền Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) chủ yếu dựa trên tính hợp pháp và hiệu suất. Do đó, để có dòng chảy ổn định của các nguồn lực, và dịch vụ nhằm duy trì nền kinh tế khổng lồ của họ, nhà cầm quyền ĐCSTQ dưới thời Tập Cận Bình đã giới thiệu một dự án lớn, dưới hình thức “Sáng kiến Vành đai và Con đường” (BRI). Chính phủ Trung Quốc do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo, đã chi hàng triệu USD ở các quốc gia Nam và Đông Nam Á để liên kết di sản Phật giáo của họ, với mục tiêu mềm mại của dự án “Sáng kiến Vành đai và Con đường” (BRI). Nhà cầm quyền ĐCSTQ đang làm việc thông qua các dự án khác nhau như Dự án Lâm Tỳ Ni, Nepal trị giá 3 tỷ USD, và gần đây đầu tư cho đảo quốc Phật giáo Sri Lanka khoản vay 1,1 tỷ USD, để xây dựng đường cao tốc, nhằm làm dịu hình ảnh thất thường của họ, và thu hút các quốc gia có một lượng đáng kể dân số Phật giáo trong các dự án “Sáng kiến Vành đai và Con đường” (BRI) của họ. Nepal, Sri-Lanka, Mông Cổ, Bhutan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Myanmar, Malaysia, là những quốc gia có số lượng đáng kể bởi người theo đạo Phật.

 

Để sử dụng Phật giáo trong việc quảng bá dự án Sáng kiến “Vành đai và Con đường (BRI), nhà cầm quyền ĐCSTQ đang cố gắng hợp pháp hóa, và chiếm đoạt quyền sở hữu tinh thần đã được khẳng định của họ đối với Phật giáo nói chung và Phật giáo Tây Tạng nói riêng.

 

Năm 2008, một hội nghị chuyên đề kéo dài hai ngày, đã được tổ chức tại vùng Tsongon (tỉnh Thanh Hải), Tây Tạng để thảo luận về cách thức Phật giáo Tây Tạng có thể phục vụ tốt hơn cho dự án Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI) và chống lại chủ nghĩa ly khai. Trương Cần Dũng (張勤勇), một nhà nghiên cứu tại Viện Khoa học xã hội Trung Quốc (中國社會科學院, CASS), được trích lời trên Global Times nói rằng: “Phật giáo Tây Tạng có thể đóng vai trò cầu nối giữa các quốc gia thuộc dự án Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI), để giao lưu tốt hơn, bởi các tín ngưỡng tôn giáo và văn hóa tương tự ở Trung và Nam Á”. Ông nói thêm rằng, “Một thách thức trước mắt của việc thúc đẩy dự án (BRI), thông qua Phật giáo Tây Tạng đến từ Ấn Độ, quốc gia đã bị kìm hãm vì lý do chính trị. . .”

 

Tại Hội nghị chuyên đề trung ương về Công tác Tây Tạng lần thứ 7, được tổ chức tại Bắc Kinh vào 28-29/8/2020, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, Tổng Bí thư ĐCSTQ nhấn mạnh rằng: “Sự cần thiết phải thực hiện đầy đủ chính sách của Đảng về quản lý Tây Tạng trong kỷ nguyên mới. Phật giáo Tây Tạng được hướng dẫn trong việc thích nghi với Chủ nghĩa Xã hội, và cần được phát triển trong bối cảnh ở Trung Quốc”. Do đó, tất cả những diễn biến trên cho thấy rằng, nhà cầm quyền ĐCSTQ đang có kế hoạch thúc đẩy mạnh mẽ bởi dự án Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI), thông qua Phật giáo Tây Tạng.

 

Không giống như Trung Quốc, Ấn Độ không chỉ có dân số trẻ hơn, mà còn được trang bị Anh ngữ. Điều này có nghĩa là họ đang ở vị thế tốt hơn để thể hiện quyền lực mềm của Ấn Độ theo hướng tích cực. Trong cuộc đấu tranh cho chính sách ngoại giao quyền lực mềm của Phật giáo, Trung Quốc sẽ không chỉ gặp khó khăn trong việc học cả tiếng Tây Tạng và tiếng Anh, còn vì quá khứ lịch sử, cách đối xử của họ đối với các tôn giáo ở Trung Quốc và trong các lãnh thổ bị chiếm đóng của họ: Tây Tạng, Đông Turkestan và Nam Mông Cổ, sẽ rất khó để Trung Quốc do ĐCSTQ kiểm soát được trái tim và khối óc của các Phật tử ở các khu vực khác của Châu Á. Tóm lại, để chính sách ngoại giao quyền lực mềm này thành công, Ấn Độ cần phải có những lựa chọn thông minh và những bước đi cứng rắn.

 

Tác giả: Tiến sĩ Tenzin Tsultrim

Thích Vân Phong biên dịch

(Nguồn: Vivekananda International Foundation)

 




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/12/2020(Xem: 6310)
Trong số nhiều ấn phẩm sách báo, thư từ cũ xưa mà mẫu thân truyền giao cho tôi gìn giữ, bảo quản để làm tư liệu để viết lách sáng tác, tôi tìm thấy được quyến sách “Thi phẩm Từng giọt Ma Ni” (xuất bản năm 1993, bìa sách là tranh của Họa sĩ Phượng Hồng), cùng 02 phong bì thư của “Tạp chí An Lạc” được gửi qua bưu điện từ Sài Gòn ra Nha Trang vào năm 1966, trên các kỷ vật quý hiếm này đều có lưu thủ bút của một bậc danh tăng Phật giáo nước nhà: Hòa thượng Thích Thông Bửu.
10/12/2020(Xem: 5425)
Nữ nghệ sĩ Phật tử Jacques Marchais sinh năm 1887 tại Cincinnati, thành phố ở miền tây nam Ohio, Hoa Kỳ. Thân phụ của bà là cụ ông John Coblentz và mẫu thân là cụ bà Margaret Norman Coblentz. Vốn mồ côi cha từ thuở ấu thơ, mẹ phải vất vả đùm bộc trong cảnh gà mái nuôi con; Jacques Marchais đã đến các trại mồ côi và các mái ấm khác nhau trong suốt thời thơ ấu, và tuổi thanh xuân 16, bà đã trở thành diễn viên tham gia vào một bộ phim Boston Peggy From Paris, nơi bà gặp người chồng đầu tiên Brookings Montgomery. Bà sinh được ba người con, hai gái Edna May và Jayne, và con trai, Brookings.
08/12/2020(Xem: 15017)
29/ Nhị Tổ Huệ Khả Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng giảng từ 6.45am, Thứ Năm, 01/10/2020 (15/08/Canh Tý) 🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻 Bổn lai duyên hữu địa, Nhơn địa chúng hoa sanh, Bổn lai vô hữu chủng, Hoa diệc bất tằng sanh. Xưa nay nhơn có đất, Bởi đất giống hoa sanh, Xưa nay không có giống, Hoa cũng chẳng từng sanh Nam Mô Đệ Nhị Tổ Huệ Khả Tôn Sư 💐🌹🥀🌷🌷🌸🏵️🌻🌼 Múi giờ : pháp thoại mỗi ngày của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 01:45pm (giờ Cali, USA) - 04:45pm (giờ Montreal, Canada) - 10:45pm (giờ Paris, France) - 03:45am (giờ Saigon, Vietnam) 💐🌹🥀🌷🌷🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 https://www.facebook.com/quangducwebsite
07/12/2020(Xem: 5587)
Cư sĩ Giuseppe Tucci (dʒuˈzɛppe ˈtuttʃi; sinh ngày 5 tháng 6 năm 1894 – mất ngày 5 tháng 4 năm 1984), Học giả tiên phong người Ý, nhà Đông phương học, Ấn Độ học, Đông Á học, người đã xuất bản một số sách, mở đầu cho việc nghiên cứu tôn giáo, lịch sử và văn hóa của Tây Tạng. Ông là một trong những học giả Tây phương đầu tiên du hành một cách rộng rãi trên khắp vùng cao nguyên, Phật giáo Kim Cương thừa Tây Tạng và các vùng phụ cận, những sách xuất bản của ông thường nổi tiếng về cả nội dung lẫn sự phiêu lưu mạo hiểm của ông trong khi làm nghiên cứu.
06/12/2020(Xem: 5534)
Đạo phật ngày nay đang xuyễn dương lối sinh hoạt của người con Phật là sống an nhiên tự tại trong hiện tiền. Lối sống được mọi người noi theo là tĩnh thức và hiện tại. Làm sao đạt được điều ấy? Và tại sao sống tĩnh thức và hiện tiền là chấm dứt khổ đau? Trong khi theo Phật dạy Tứ diệu đế thì tu tập diệt tận cùng lậu hoặc diệt khổ đau. Sống tĩnh thức là theo 4 y của Phật dạy: y pháp bất y nhân. Y nghĩa bất y ngữ. Y trí bất y thức. Y kinh liễu nghĩa bất y kinh bất liễu nghĩa. Sống hiện tiền là sống trong thiền định.
02/12/2020(Xem: 5741)
Bà Thái Việt Phan, người vừa được bầu vào Hội đồng Thành phố Santa Ana, đã sửng sốt khi nhận được thư cảnh báo từ từ ngôi già lam tự viện Phật giáo mà bà từng lui tới. Chùa Hương Tích đã bị xịt sơn và cảnh sát Thành phố Santa Ana đã coi đây là một tội ác gây ra bởi sự thù địch. Đây là ngôi tự viện Phật giáo thứ sáu bị xịt sơn trong khu vực chỉ trong tháng vừa qua.
02/12/2020(Xem: 8819)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật - Trong tâm tình: ''Lắng nghe để hiểu- Nhìn lại để thương'', chúng con, chúng tôi đã thực hiện một buổi phát quà cứu đói cho 294 hộ tại 2 ngôi làng nghèo có tên là Dugarpur & Amobha cách Bồ Đề Đạo Tràng chừng 8 cây số. Xin mời quí vị hảo tâm xem qua một vài hình ảnh tường trình.. Thành phần quà tặng cho mỗi hộ gồm có: 1 tấm Saree, 10 ký Gạo và bột Chapati, đường, muối dầu ăn và bánh ngọt cho trẻ em, kèm với 200Rupees tiền mặt để mua thêm gạo cho từng hộ GD.(Bên cạnh đó là những phần phụ phí như mướn xe chở hàng, tiền công đóng gói và công thợ khuân vác, tiền quà cho những người bảo vệ và sắp xếp trật tự tại nơi phát chẩn.)
01/12/2020(Xem: 6127)
Cư sĩ Keith Dowman sinh năm 1945, gốc người Anh, tinh hoa Phật giáo, một vị giáo thụ giảng dạy Thiền Đại Viên Mãn (Dzogchen; 大圓滿), theo truyền thống Ninh Mã, Phật giáo Kim Cương thừa, Mật tông Tây Tạng, dịch giả các kinh điển Phật giáo Tây Tạng. Cư sĩ Keith Dowman đang cư ngụ tại Kathmandu, Nepal, nơi ông đã sống trong 25 năm. Các bản dịch của ông từ tiếng Tây Tạng.
30/11/2020(Xem: 5580)
“Cảm ơn đời mỗi sớm mai thức dậy Ta có thêm ngày nữa để yêu thương” Cảm ơn vì sáng nay tôi còn nghe được tiếng nói, tiếng cười của người thân, bạn bè. Nhìn xuyên qua khe cửa, lá trên cây đã bắt đầu đổi màu, biến những hàng cây xanh ngày nào thành một bức tranh hỗn hợp nhiều sắc màu. Vài cơn gió lành lạnh lại bắt đầu thổi về mang theo bao hồi ức vui buồn lẫn lộn. Tôi lặng lẽ ngồi đây như ngồi giữa thiên đường của thời xa xưa ấy. Tôi luôn biết ơn sâu sắc đến quý Phật tử xa gần đã hỗ trợ và đồng hành cho NVNY trong suốt chặng đường 5 năm qua. Nhất là những thiên thần đáng yêu tại Las Vegas, sớm hôm luôn bay về nâng đỡ cho Ni Viện khi cần. Năm 5 về trước, lần thứ tư tôi đặt chân đến đất nước xinh đẹp vĩ đại này. Tôi tận hưởng vẻ đẹp của những cánh đồng bất tận, nơi an nghỉ của ánh sáng mặt trời, nơi các đóa hoa tỏa hương thơm vào không gian; và tôi khám phá các ngọn núi tuyết cao sừng sững hiên ngang giữa trời đất, ở đó tôi tìm thấy sự thức giấc tươi mát của mùa Xuân, lòng kh
29/11/2020(Xem: 6667)
Cư sĩ Rob Nairn, vị Luật sư, Thẩm phán Trẻ tuổi nhất tại Rhodesia, Giáo sư Phật học uyên thâm, tác giả, nhà nghiên cứu dân số. Ông sinh ra và lớn lên tại Rhodesia. Ông là môn đồ của Phật giáo Kim Cương Thừa Mật tông Tây Tạng, thuộc dòng truyền thừa Karma Kagyu. Cư sĩ Rob Nairn, người đại diện cho Hòa thượng Tiến sĩ Akong Rinpoche tại Châu Phi (Chöje Akong Tulku Rinpoche,1939-2013, người sáng lập Tu viện Samye Ling Scotland), với trách nhiệm giảng dạy 11 Trung tâm Phật học tại bốn quốc gia Châu Phi. Mục tiêu của ông là giảng dạy thiền và Phật giáo Tây Tạng cho tất cả những ai yêu mến đạo Phật, cũng như ở cấp độ đại học và hậu đại học ở các quốc gia như Vương quốc Anh, Ireland, Châu Phi và Hoa Kỳ thông qua các trường Đại học và các Trung tâm Phật học.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]