Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thủ Bút Của Bậc Danh Tăng, HT. Thích Thông Bửu (1936-2007)

10/12/202019:19(Xem: 6581)
Thủ Bút Của Bậc Danh Tăng, HT. Thích Thông Bửu (1936-2007)

Thủ bút của bậc danh tăng

HÒA THƯỢNG THÍCH THÔNG BỬU (1936-2007)

trên Sách, Thư từ & Thiệp Chúc Tết

HT Thông Bửu 

           Trong số nhiều ấn phẩm sách báo, thư từ cũ xưa mà mẫu thân truyền giao cho tôi gìn giữ, bảo quản để làm tư liệu để viết lách sáng tác, tôi tìm thấy được quyến sách “Thi phẩm Từng giọt Ma Ni” (xuất bản năm 1993, bìa sách là tranh của Họa sĩ Phượng Hồng), cùng 02 phong bì thư của “Tạp chí An Lạc” được gửi qua bưu điện từ Sài Gòn ra Nha Trang vào năm 1966 và 1969. Trên các kỷ vật quý hiếm này đều có lưu thủ bút của một bậc danh tăng Phật giáo nước nhà: Hòa thượng Thích Thông Bửu.

          Nội dung bức thư, vị Chủ nhiệm kiêm Chủ bút Tạp chí An Lạc đã tân tâm tận tình trao đổi với cộng tác viên về chuyện in ấn phát hành tuần báo của “Ấn Quán Phổ Đà”… Đặc biệt là tấm thiệp Chúc Tết năm Kỷ Dậu 1969, với tranh vẽ nhánh mai vàng nở rộ vươn lên từ phía dưới một hồng chung,  chúng ta mường tượng và cảm nhận được đất trời đã vào xuân, muôn người muôn vật hoan hỷ lắng nghe tiếng chuông ngân vọng từ cõi già lam thanh tịnh để tĩnh tâm chào đón một tân niên An Lạc. Mặt sau của thiệp có in một câu đối thư pháp tiếng Việt:

          “Nguyệt tàn Trống lặng nhường Rồng Việt khai nguyên

           Mai nở Chuông ngân dục Phượng Hoàng xuất thế!”

HT Thich Thong Buu-BI THU TS TUAN BAO AN LAC-2HT Thich Thong Buu--TUNG GIOT MANIHT Thich Thong Buu-THU -BAO AN LAC 

            Trích lược Tiểu sử & Công hạnh:

            Hòa thượng pháp húy Đồng Phước, pháp tự Thông Bửu, pháp hiệu Viên Khánh, nối pháp đời thứ 43 Thiền phái Lâm Tế, dòng Chúc Thánh. Ngài thế danh Trần Thượng Hiền, sinh ngày 02.9.1936 (Bính Tý) tại xã Xuân Quang 2, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.

          Năm 1956, ngài được song thân đồng ý cho xuât gia tu hành tại chùa Long Hà (xã Xuân Long, huyện Đồng Xuân). Đến năm 1957, ngài vào Ninh Hòa (Khánh Hòa) được duyên lành yết kiến Hòa thượng Thích Quảng Đức tại tổ đình Thiên Bửu Thượng, và được Hòa thượng tiếp nhận, thế độ truyền giới Sa di, cho pháp danh Đồng Phước.

       Sau đó, được tin thân phụ bệnh nặng ngài đành về lại quê hương chăm sóc, khi người khỏi bệnh ngài trở vào Ninh Hòa theo thầy, thì lúc đó Hòa thượng Thích Quảng Đức đã vào Nam hoằng hóa Phật pháp. Thầy trò không gặp nhau, nên ngài cầu Hòa thượng Thích Viên Giác, chùa Giác Hải (Vạn Giã, huyện Vạn NInh) làm y chỉ sư nương tựa tu học. Để có giới đức trang nghiêm thân tâm, thăng tiến trên đường giải thoát, năm 1960, ngài đã thọ giới Tỳ kheo Bồ tát tại giới đàn chùa Giác Hải.

         Đến năm 1962, được tin Hòa thượng Thích Quảng Đức phổ hóa Phật pháp tại Sài Gòn, ngài xin Hòa thượng y chỉ sư cho vào Nam gặp thầy tổ. Khi gặp lại Hòa thượng bổn sư, ngài một mực hầu thầy, tiến tu đạo hạnh và được bổn sư ban pháp tự Thông Bửu.

         Năm 1963, Phật giáo bị lâm vào pháp nạn. Hòa thượng bổn sư và ngài dấn thân vào cuộc đấu tranh cho sự trường tồn của đạo pháp và dân tộc. Cuộc đấu tranh của Phật giáo không dừng lại, mà vẫn tiếp diễn, tổ đình Quán Thế Âm trở thành nơi trung tâm phát xuất những phong trào xuống đường rầm rộ ở Gia Định.

        Trước khi tự thiêu, Hòa thượng bổn sư (Thích Quảng Đức) gởi gắm ngài cho chư tôn đức Giáo hội giúp đỡ kế thế trụ trì tổ đình Quán Thế Âm.

        Với tâm nguyện phát triển tổ đình làm nơi tu học cho hàng xuất gia và tại gia, năm 1965 ngài đã cung thỉnh Hòa thượng Thích Vạn Ân, chùa Hương Tích (Phú Yên) về tổ đình chứng minh. Thời gian này ngài cầu pháp với Hòa thượng, được ban pháp hiệu Viên Khánh, và được trao truyền pháp hành trì Mật tong.

         Ngài nhận ra rằng, sự kế thừa mạng mạch Phật pháp phải cần đào tạo tăng tài, nên năm 1964, ngài thu nhận 22 học tăng từ các tỉnh về Sài Gòn tu học, trong đó có những vị hiện nay đã thành danh như Hòa thượng Thích Quảng Thiện, Hòa thượng Thích Tịnh Từ…

         Chẳng những quan tâm truyền bá giáo lý Phật giáo cho giới Tăng ni, Phật tử, mà ngài còn cố gắng đưa tinh thần đạo Phật rộng khắp qua mảng văn hóa để làm lợi lạc quần sanh, như:

          - 1965, sáng lập và làm chủ nhiệm kiêm chủ bút tập san “Sử liệu thức”.

           - 1966, thành lập “Ấn quán Phổ Đà Sơn” và làm chủ nhiệm kiêm chủ bút tạp chí An Lạc, tuần báo An Lạc.

         + Biên soạn:

          Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa giảng luận, 2 tập - Phổ Môn giảng luận - Phật pháp căn bản - 25 bài giảng Phật pháp - Quản trị học Phật giáo - 36 pháp điều thân.

          + Sáng tác:

        - Giảng sư, Bảy Đức Tính Ưu Việt - Truyện ngắn Triết lý Phật giáo bằng tranh - Thi phẩm Từng Giọt Ma Ni - Chủ biên Nội san tổ đình Quán Thế Âm (từ năm 1999-2007) - Phát hành một số băng đĩa giảng Phật pháp của ngài,

         Trưởng tử của Bồ tát Quảng Đức, được kế thế trụ trì tổ đình Quán Thế Âm (ngôi chùa thứ 31 và cuối cùng của Bồ tát), ngài có trách nhiệm trùng tu, mở rộng ngôi tổ đình thành nơi trang nghiêm thờ phụng Tam bảo và xây dựng cơ sở nhà tăng, phòng ốc để chư tăng có nơi tu học. Quá trình trùng tu đã thực hiện qua các giai đoạn từ năm 1964 đến năm 2000 mới hoàn tất để trở thành ngôi phạm vũ huy hoàng.

        Về xây dựng, ngài đã có công khai sơn:

       - Năm 1986, khai sơn ngôi chùa Quảng Đức tại Mađagui, huyện Đạ Oai, tỉnh Lâm Đồng - Năm 1998, xây dựng Từ đường Bồ tát Quảng Đức tại xã Tu Bông, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa - Năm 2000, trùng tu chùa Thiên Phước, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang (ngôi chùa thứ 30 của Bồ tát Quảng Đức khai sơn) - Năm 2002, tái thiết chùa Phước Huệ Hàm Long tại xã Xuân Quang 2, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên…

           Trải qua một thời gian lâm bệnh, đến hồi nhân duyên đã mãn, ngài thâu thần thị tịch tại tổ đình Quán Thế Âm lúc 21 giờ ngày 14 tháng Giêng năm Đinh Hợi (tức ngày 02.03.2007), trụ thế 72 năm, 47 giới lạp.

        CUNG DUY TỪ LÂM TẾ CHÁNH TÔN TỨ THẬP TAM THẾ, QUÁN THẾ ÂM ĐƯỜNG THƯỢNG, HÚY THƯỢNG ĐỒNG HẠ PHƯỚC TỰ THÔNG BỬU HIỆU VIÊN KHÁNH, HÒA THƯỢNG GIÁC LINH.

 

                                                                            Tâm Không Vĩnh Hữu

 HT Thich Thong Buu-THIEP CHUCTET BAO AN LACHT Thich Thong Buu--THIEP CHUC TET- bao an lacHT Thich Thong Buu--Chu KyHT Thich Thong Buu-BI THU TS TUAN BAO AN LAC




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/05/2018(Xem: 6476)
Anh à, chiều hôm qua, chị và cháu đến nhà em. Chị đứng ngoài cửa sổ gọi vọng vào: "Chú Hữu ơi... Chú Hữu ơi!" Tiếng gọi thân quen của chị thường gọi em qua điện thoại, hôm nay nghe sao có gì đó dè dặt rụt rè, không như bao lần mang âm sắc hốt hoảng, lắp bắp, nghẹn ngào mỗi khi gặp chuyện chẳng lành, việc chẳng yên.
01/05/2018(Xem: 8131)
1- Mỗi lần bị anh Hưng ăn hiếp, nghĩ mình là em, thân nhỏ bé ốm yếu không thể chống cự lại cái ông anh to đùng và mập thù lù kia, ức quá nên Thịnh chỉ còn biết nước… khóc. Khóc thật là to và “đã”. Khóc xong thì thấy nhẹ hẳn cả người, không còn thấy bực tức nữa.
01/05/2018(Xem: 5079)
Tối hôm qua là một tối đáng nhớ trong đời. Một buổi tối thật vui, đầy tiếng cười và cả nước mắt. Chú Thạc đột ngột trở về từ một phương trời xa xôi cách nửa vòng trái đất, sau hơn ba mươi năm sống tha hương nơi đất khách quê người. Chú rời xa quê hương khi Thuý Loan còn là một hạt bụi nhỏ nhoi bay lơ lững ở một khoảng không mênh mông nào đó. Hai chú cháu chỉ biết mặt nhau qua mấy tấm ảnh kèm theo trong những lá thư đầy tình thương nhớ mà thi thoảng chú gửi về, cũng như bố mẹ gửi đi…
01/05/2018(Xem: 13995)
Thông Báo Hành Hương Phật Tích Ấn Độ (2018)
29/04/2018(Xem: 11468)
Sông Hằng là con sông thiêng liêng nhất được tôn thờ như một nữ thần hoặc như là một bà mẹ truyền ban sức sống ở Ấn Độ và được xem là nguyên mẫu của tất cả dòng nước thiêng liêng trên thế giới. Từ những thời đại sớm nhất, dọc bờ sông đã có hàng triệu những người không thể đếm được đến đây để tắm, cầu nguyện, uống nước thánh và quăng tro người chết.
29/04/2018(Xem: 8625)
Sư Bà Hải Triều Âm sanh trưởng tại tỉnh Hà Đồng –Hà nội năm 1920. Sư bà là một trong số ít các bậc nữ lưu sống trong thời kỳ Pháp thuộc, có văn bằng Diplome D’étude Primaire Supérieur, trở thành một cô gíao đoan trang thông tuệ mẫu mực, lấy việc dạy học làm sự nghiệp cho đời mình. Sư Bà cũng là một trong những vị sáng lập và phát triển nhiều gia đình Phật Tử ở Hà Nội Hải Phòng mà thời bấy giờ thường gọi là gia đình Phật Hóa Phổ. Qua một dịp nghe được sư cụ Thích Tuệ Nhuận giảng kinh Lăng Nghiêm ở chùa Quán Xứ, đến phẩm Quán Âm Quảng Trần và chương Đại Thế Chí Niệm Phật, cô giáo Catallan Nguyễn Thị Ni hốt nhiên lãnh hội được sự vi diệu của Phật Pháp và quy y với Đức Pháp Chủ Thích Mật Ứng, được ngài ban cho pháp danh Hải Triều Âm. Sư Bà xuất gia năm 1949 tức là năm Sư Bà 29 tuổi, với Hòa Thượng Pháp Chủ Thích Đức Nhuận tại chùa Đồng Đắc.
29/04/2018(Xem: 7640)
Đức Phật dạy có nhiều cách bố thí khác nhau như: Pháp thí: bố thí Phật pháp ý nghĩa cao thượng giải thoát. Tài thí: bố thí tiền bạc. Vật thí: bố thí vật chất. Vô úy thí: bố thí sự không sợ hãi. Nhan thí: bố thí nụ cười. Ngôn thí: bố thí ái ngữ. Tâm thí: bố thí tâm hòa ái, lòng biết ơn. Nhãn thí: bố thí ánh mắt yêu thương hiền từ. Thân thí: bố thí hành động nhân ái, thân thế. Phòng thí: bố thí phòng ốc chỗ ở giường nằm. Dược thí: bố thí thuốc….
29/04/2018(Xem: 7256)
Hải âu là tên một loài chim màu xám trắng xinh xắn sống ven sông biển. Khi mặt trời vừa mọc, tiếng sóng nước gợn lăn tăn hòa lẫn âm thanh kinh kệ ngâm nga vang rền từ các đền tháp, thì vô số chim trời hải âu từ đâu đó bắt đầu xuất hiện trên Sông Hằng, thành phố Ba-la-nại, để múa lượn mừng ngày nắng mới và dùng điểm tâm thực phẩm do các khách hành hương bố thí.
29/04/2018(Xem: 8783)
Bồ-đề-đạo-tràng, nơi nổi tiếng với Tháp Đại Giác – Đức Thích Ca Mâu Ni ngồi thiền giác ngộ, dọc bên bờ kia sông Ni-liên vào những ngày đầu mưa xuân, cuối đông tháng 12 cũng là mùa hoa cải vàng rực nở khắp cánh đồng.
29/04/2018(Xem: 7620)
Đệ tử của Đức Phật luôn gồm đủ bốn chúng xuất gia và tại gia: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Nam cư sĩ và Nữ cư sĩ. Mỗi chúng đều có vai trò quan trọng nhất định trong việc lợi mình, lợi người và duy hoằng Phật Pháp tại nhân gian. Việc hoằng Pháp lợi sanh nơi xứ người xưa nay phần chính là chư Tỳ kheo. Bên cạnh đócó nhiều Tỳ kheo ni và Nữ cư sĩ cũng đã đóng góp rất lớn. Nhiều tấm gương sáng của Nữ đệ tử Phật đã được ghi lại mà nữ giới hậu học ngày nay cần nên soi chiếu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]