Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Giáo dục – Phong Thủy – Vận mạng

10/04/201319:08(Xem: 10039)
Giáo dục – Phong Thủy – Vận mạng

Tuyển tập bài viết về Vu Lan - 2009

Giáo dục – Phong Thủy – Vận mạng

Hòa Thượng Tịnh Không

Nguồn: Hòa Thượng Tịnh Không

Ngày nay, tuy đời sống vật chất phong phú nhưng lại thiếu kém về mặt tinh thần, tâm linh trống rỗng, không nơi nương tựa. Trong khi thời xưa, đời sống tinh thần lại có phần sung túc hơn. Nguyên nhân do đâu? Và làm thế nào để cải thiện?

Giáo dục cổ nhân


Ngạn ngữ Trung Quốc có câu “nhân dữ cầm thú cơ hy”, con người là động vật, cầm thú cũng là động vật. Con người và cầm thú khác biệt nhau chính ở giáo dục, hay nói cách khác, nếu con người không được giáo dục, đời sống sẽ không bằng cầm thú. Không ít người đã từng nghiệm chứng, cảm thấy mình là người nhưng không an nhàn tự tại.
Con người là vạn vật chí linh, điều đáng quý nhất là chúng ta có năng lực tiếp nhận sự giáo dục, hiểu rõ chân tướng của vũ trụ nhân sinh, biết cách sống hòa thuận với nhau và với những loài động vật khác, hòa mình cùng đại tự nhiên. Nếu không thông hiểu sẽ không thể đem bổn phận con người dấn thân một cách tốt đẹp. Được như vậy, cuộc sống mới có giá trị, có ý nghĩa; đời sống tinh thần mới được đầy đủ. Cách giáo dục của nhà Nho, cụ thể là Khổng Lão phu tử, các khóa mục cũng rất có thứ tự trong đó “đức hạnh” được xem là mối quan tâm hàng đầu.
Giáo dục đức hạnh
Đức hạnh là yếu tố cơ bản để làm người, cũng chính là luân lý đạo đức mà chúng ta thường đề cập. Nếu vứt bỏ luân lý đạo đức, con người sẽ không khác gì loài động vật, mà cổ nhân thường ví von: “cầm thú mặc quần áo”. Thân tướng con người, mặc y phục con người, đội nón người,… nhưng tâm hạnh lại chẳng khác gì các loại động vật; đối với chân tướng của vũ trụ nhân sinh, không hề biết một tí gì. Nhà Phật gọi hiện tượng đó là “thọ báo”, người không những bị thọ báo mà còn tạo vô lượng vô biên tội nghiệp, quả khổ không thể nào ước lượng được. Việc này chỉ cần tỉ mỉ quán sát, chúng ta có thể nhận ra và khẳng định. Do đó “giáo dục đức hạnh” là căn bản của giáo dục.
Thời xưa, bậc tiểu học, từ một đứa trẻ bảy tuổi rời khỏi cha mẹ phải theo thầy, sống chung với thầy. Thầy giáo không chỉ dạy học mà còn giáo dục ngay trong đời sống. “Học vi nhân sư, hành vi thế phạm”, thầy giáo là tiêu chuẩn sống, hình tượng sống. Học trò cùng sống với thầy phải hướng đến thầy để học tập. Học từ đời sống của thầy, học cách đối nhân xử thế. Tiểu học chú trọng đến giáo dục đời sống, dạy cách tưới nước quét nhà, dạy tôn kính sư trưởng, hiếu thuận cha mẹ, thương yêu anh em, dạy điều cơ bản của luân thường, dạy về “trung hiếu tiết nghĩa”, “ngũ luân bát đức”.
Giáo dục học thuật
Ngoài giáo dục đời sống, giáo dục học thuật được chú trọng song song. Không giảng giải, thầy giáo xem tư chất của từng học trò. Ai có tư chất cao, mỗi ngày được thầy truyền dạy bài học dài. Thiên tư kém hơn, mỗi ngày được dạy bài học ngắn. Bài khóa thời xưa không giống giáo trình của trường học ngày nay. Sách đọc đều từ “tứ thư ngũ kinh” hay “thập tam kinh”. Mỗi ngày lên lớp, học trò được yêu cầu ngừng ngắt câu trong sách. Sau khi được thầy chỉnh sửa lại, học trò được dạy đọc đi đọc lại hàng chục lần đến thuộc lòng. Nếu không đủ năng lực, học trò sẽ chỉ được yêu cầu thuộc ít bài hơn. Thiên tư bậc nhất một ngày có thể học thuộc khoảng 700 chữ. Thiên chất trung bình có thể học thuộc 400 chữ mỗi ngày. Sau khi đã thuộc bài, thầy giáo lại yêu cầu đọc 100 lần, 200 lần cho đến thông thuộc làu làu. Vì sao cách giáo dục thời xưa lại bắt đọc nhiều biến đến vậy?, tuổi thơ sức nhớ rất tốt, sau khi đọc như vậy sẽ ghi nhớ cả đời. Do đó giai đoạn tiểu học, các vị thầy lợi dụng năng lực ghi nhớ thiên chất để buộc học trò phải ghi nhớ những điều cần thiết. Điển tích văn chương của Cổ Thánh Tiên Hiền cũng đều dạy thuộc lòng ở giai đọan tiểu học.
Khi giai đoạn tiểu học hoàn tất, ngay lúc này, nhất cử nhất động của trò đều phù hợp với lễ phép. Người Trung Quốc thường gọi là tiểu đại nhân. Không giống tuổi trẻ được giáo dục ở phương Tây ngày nay, hoạt bát, hồn nhiên, phương Đông giáo dục trẻ thơ như người lớn, cử chỉ đoan chính, một chút cũng không dám tùy tiện. Thế nên điều đó dễ phát sinh trí tuệ, mười ba tuổi vào thái học. Thái học thuộc giáo học Trung Quốc, tương đương đại học hiện nay. Phương pháp dạy thái học hoàn toàn là giảng giải, nghiên cứu, thảo luận. Thầy giáo dạy học sinh đi vào thực tiễn, không cần sách vở. Vì sao? vì những điều giảng nói, học sinh đều đã thuộc lòng. Thầy giáo chỉ nêu ra bộ sách nào, ví dụ “Lễ ký”, chương nào, dòng nào, các học trò đều có thể đọc ra được. Thầy giáo dạy học không cần mang giáo trình, học trò nghe giảng cũng không cần ghi chép. Thầy trò có thể cùng đi du ngoạn, vừa đi vừa nghiên cứu thảo luận, sau ba tháng quay về thì môn học đó cũng đã hoàn thành theo cách thức “đọc vạn quyển sách, đi vạn dặm đường”. Những vấn đề khó hiểu trong kinh điển được thầy giảng nghĩa. Nơi nào được đề cập trong kinh điển, thầy trò cùng đi đến để tham quan, khảo sát thực tế, học vấn chân thật.
Giáo dục đối nhân xử thế
Ngày nay, trong cuộc sống thường nhật, trong đối nhân xử thế, chúng ta thực tiễn áp dụng phương cách của người xưa, đó gọi là chân trí tuệ, chân học vấn. Lịch sử đã có rất nhiều người tuổi chưa tròn hai mươi đã là đồng tử, tiến sĩ, cử nhân. Tiến sĩ, cử nhân năng lực thời bấy giờ được phân bổ đến địa phương, làm trưởng huyện thị, quan phụ mẫu địa phương, đưa ra những chính sách tối ưu. Những năm đầu dân quốc, chúng tôi biết một vị đệ tử của Phật môn, tên Trương Lân, có lẽ bây giờ ông đã tịch. Trương Lân làm huyện trưởng khi tuổi vừa tròn 19.
Giáo học cổ xưa Trung quốc khác với phương thức hiện tại ở chỗ chú trọng vào học vấn thiết thực, khóa mục đơn giản, dạy làm người, vì dân phục vụ. “Học nhi ưu tắc sĩ”, quốc gia bồi dưỡng nhân tài, tuyển chọn trưởng địa phương với tiêu chuẩn “hiếu liêm”. Phương cách tuyển cử thời xưa cũng không phải do toàn dân tuyển cử mà do quan viên địa phương tuyển cử.
Triều đại xưa ban thưởng rất cao cho các thị trưởng địa phương nếu có thành tích tiến cử nhân tài. Mão quan cũng biểu trưng cho khuynh hướng này. Mão các quan thị trưởng địa phương không giống như mão thông thường. Mão được thiết kế dạng bậc thang, phía trước thấp hơn một tầng, phía sau cao hơn một tầng, gọi là mão tiến hiền, với niềm hy vọng đời sau cao hơn đời trước một bậc. Mão Đế Vương có hình chuỗi ngọc, biểu thị tâm bình đẳng đối với toàn dân.
Quan thị trưởng địa phương là người thay quốc gia đề bạt nhân tài. Họ phải đi điều tra hiếu liêm, hiếu tử, trung thần xuất thân từ người con hiếu. Con người hiếu thuận cha mẹ nhất định sẽ trung thành với quốc gia, quan tâm nhân dân, tận tâm tận lực, liêm khiết không hề tham ô. Quốc gia tuyển chọn nhân tài dựa trên hai tiêu chuẩn: tận trung, gánh vác trách nhiệm; và liêm khiết, không tham ô. Khi được tiến cử, những người con hiếu thuận ấy lại được bồi dưỡng, giáo dục.
Vì thế đời sống tinh thần người xưa khá dồi dào dù đời sống vật chất tuyệt nhiên không quan trọng. Các quan lớn thậm chí đến thừa tướng, khi về già, đa số vẩy hai tay sạch không, không có thứ gì. Họ trở về cuộc sống bần hàn, thanh cao, được xã hội tôn kính. Họ làm quan nhiều năm, không tham ô, mong cầu phú quý cho bản thân mà dốc toàn tâm toàn lực vì quốc gia trăm họ. Cả cuộc đời sống ý nghĩa, có giá trị, vì vậy đời sống tinh thần của họ đương nhiên đầy đủ, biểu hiện ngay trong đời sống “ý sách tình thơ”.
Con người trong hiện tại tuy phú quý, địa vị, nhưng thực chất họ chẳng khác những cỗ máy, không hưởng thụ, ngày ngày sống trong lo lắng phiền não, sợ được sợ mất, khổ không nói ra. Do đó vạn nhất không nên hiểu lầm rằng nghèo là khổ. Đôi khi giàu sang phú quý còn khổ hơn bội phần. Giàu không vui, không bằng nghèo mà vui; quý không an, không bằng nghèo mà an. Nghèo có an lạc, trong khi người phú quý lại không có an lạc. Nguyên nhân do đâu? Đều do giáo dục. Nếu nhận sự giáo dục truyền thống Trung Quốc, nhận được sự dạy bảo của Phật pháp, thì bất luận là người ở tầng lớp nào, phú quý hay bần tiện cũng đều có thể an lạc, đều có thể đạt đời sống tinh thần dồi dào phong phú.

Phương cách giáo dục thời nay


Cầu tiền của cho bản thân không làm chúng ta hạnh phúc, địa vị cũng không làm ta mỹ mãn nếu không có nền tảng của giáo dục luân lý, giáo dục của Phật pháp.
Phật pháp là giáo dục chánh giác, là giáo dục đại triệt đại ngộ có thể giải quyết cơ bản vấn đề. Giáo dục luân lý nhà Nho có thể giải quyết vấn đề của đời này, còn giáo dục của Phật pháp có thể giải quyết vấn đề của nhiều đời nhiều kiếp. Ấn tổ nói: “Thâm tín nhân quả, tín nguyện niệm Phật”, nếu không niệm Phật, không đem không gian đời sống của chúng ta mở rộng ra, thì chúng ta không thể gặt hái quả lành. Nếu dùng ngôn ngữ hiện tại để nói, thì thế giới Tây phương cực lạc chính là ngoài Thái không. Chúng ta có thể sanh đến ngoài Thái không, cũng như chúng ta có thể sanh đến thế giới Tây phương cực lạc. Đó là tận hư không khắp pháp giới, là khoa học đạt đến đỉnh cao. Hay nói cách khác, nơi đó bao gồm tất cả thọ dụng tùy tâm sở cầu. Muốn ăn thức ăn, thức ăn lập tức bày ra trước mặt, đây là kỹ thuật chân thật đạt đến đỉnh tối cao. Như chúng ta biết, khoa học cho rằng vật chất do năng lượng biến hiện, nhưng khoa học không lý giải được cách thức biến hiện. Thế giới Tây phương cực lạc, ý niệm chuyển biến vật chất, muốn ăn gì, năng lượng liền biến thành thứ ấy, không muốn ăn nữa, cũng không cần dọn dẹp, năng lượng tự động làm vật chất biến mất. Hiện tại chúng ta phải dùng phi cơ, hỏa tiễn,… làm phương tiện di chuyển. Thế giới cực lạc du lịch thái không, nghĩa là không dùng phương tiện, chỉ nghĩ đến đâu, thân liền đến nơi đó. Tự tại đến vậy. Phát nguyện đến tận hư không pháp giới cõi nước chư Phật, chúng ta sẽ nỗ lực để thực hiện được.
Đức Thích Ca Mâu Ni Phật, chư Phật Bồ Tát khuyên chúng ta niệm Phật vãng sanh tịnh độ, đến thế giới Tây phương cực lạc, đi khắp mười phương thảy đều không chướng ngại, đến bất cứ cõi nước nào cũng được hoan nghênh, chư Phật Bồ Tát vừa nhìn thấy, đặc biệt tiếp đón. Đó mới là chân thật đại viên mãn. Được như vậy, chúng ta cần thông suốt kinh Vô Lượng Thọ, đọc kinh điển đại thừa, liễu ngộ rồi sinh khởi tín tâm mới biết được cách làm như thế nào. Cho nên, học Phật trước hết phải làm người tốt. Đừng ngồi hy vọng trở thành Phật, Bồ tát mà phải hành thiện. Cụm từ “Đốn luân tận phân” của đại sư Ấn Quang có ý nghĩa rất sâu sắc. Chúng tôi tạm giải nghĩa là “chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi”. Chúng ta có thể dùng tâm này để đối nhân xử thế tiếp vật, tất cả gọi là “đốn luân”. Đem chức vị công việc của mình dấn thân phục vụ chính là “tận phân”.
Đức Phật dạy, bổn phận của người xuất gia là “thọ trì, đọc tụng, vì người diễn nói”. “Thọ trì” là tuân thủ lời giáo huấn của Phật trong kinh điển, y giáo phụng hành. “Đọc tụng”, là mỗi ngày ôn tập lời giáo huấn ấy, không thể quên được. “Vì người diễn nói” là biểu diễn, làm gương cho kẻ khác; vì người khác giảng giải. “Tận phân”, chúng ta phải dốc hết bổn phận, làm từ thiện, thức tỉnh chúng sinh giác ngộ. Giúp đỡ chúng sinh giác ngộ mới thật là từ bi cứu giúp.
“Từ tế” có ý nghĩa rất sâu rộng, tặng một ít lương thực, quần áo, đó chỉ là tiểu từ tế. “Vì người diễn nói” là đại từ tế. Phật phổ độ chúng sinh chín pháp giới, chúng ta thông hiểu đạo lý phải biết nên làm thế nào để tất cả chúng sinh đều có thể giác ngộ. Chúng sinh khi được giác ngộ, tất cả tai nạn của thế gian đều được hóa giải, được tiêu trừ. Người giác ngộ khi đó mới thật sự hạnh phúc. Không giác ngộ thì dù ở địa vị cao, tài sản vật chất đủ đầy nhưng họ không cảm thấy mỹ mãn. Cho nên giáo dục của nhà Phật rất chú trọng hai chữ “giác ngộ”.
Giác ngộ triệt để, viên mãn, cầu sanh thế giới Tây phương cực lạc, cầu sanh tịnh độ, học tập với đức Phật A Di Đà, cũng có thể phát đại nguyện, giúp đỡ tất cả chúng sinh khắp hư không pháp giới với tâm lượng chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, và từ bi. “Nói lời tốt, làm việc tốt, làm người tốt” là mô phỏng chân chính của Phật Bồ Tát. “Vì người diễn nói”, gương mẫu cho xã hội đại chúng nhìn vào. Chúng tôi đi khắp nơi giảng kinh đề xướng bốn tốt: “Nói lời tốt, làm việc tốt, làm người tốt, giữ tâm tốt”, “tâm tốt” chính là: “chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi”. Đấy mới thật là “học vi nhân sư, hành vi thế phạm”, cứu độ chính mình cũng là cứu độ tất cả chúng sinh.

Vận mạng có thể thay đổi không?


Một vấn đề rất nhiều vị đồng tu quan tâm, đó là vấn đề xã hội. Nhiều người thường đi xem tướng, đoán mạng. Việc này có nên không? Đáp án của chúng tôi là nên.
Chúng ta cần hiểu rõ chân tướng sự lý này để biết được nó là thật hay giả. Mạng có hay không? Có! Mạng từ đâu ra? Là trong đời quá khứ chúng ta đã tạo tác nghiệp thiện ác mà hình thành. Trong đời quá khứ tạo nhiều việc thiện, thì mạng chúng ta tốt, tạo nhiều nghiệp ác thì mạng không tốt. Mạng không do người khác định, ngay đến thiên địa quỷ thần, Phật Bồ Tát, cùng thượng đế cũng không liên hệ. Kinh Phật cũng nói rất rõ ràng “tự làm tự chịu”. Người chân thật thông hiểu sự lý này dù gặp tai nạn to lớn đến đâu, họ cũng sẽ không oán trời trách người. Dù hành thiện cả đời, tận trung báo quốc, nhưng cuối cùng lại gặp nhiều bất hạnh, họ cũng hiểu rằng “sự thọ nhận đời này là do đời trước tạo” nên hoan hỉ vui mừng mà tiếp nhận. Nhân quả thông qua nhiều đời, không chỉ một đời. Đời này làm, đời này nhận gọi là “hiện báo”; đời này làm đời sau nhận Phật pháp gọi là “sinh báo”; đời này làm, nhiều đời sau nhận gọi là “hậu báo”. Thời gian của hậu báo có lúc rất lâu dài. Cho nên Phật pháp thừa nhận, mỗi chúng sinh đều có vận mạng, nhưng không gọi là “túc mạng”
Cũng chính vì vận mạng có thể tùy thời thay đổi, vậy làm sao để thay đổi. Nếu đã giác ngộ, chúng ta nhất định phải đoạn ác tu thiện để làm cho vận mạng được tốt hơn. Bằng không, mỗi ngày vẫn giữ tâm hại người lợi mình, tạo tác tội nghiệp, quả báo sẽ ngày càng xấu đi, vận mạng cũng xấu theo. Cho nên vận mạng có một biến số. Người ta đi đoán mạng, xem tướng đều có thể xem được rất chuẩn là vì, vận mạng tuy là biến số nhưng mức độ thay đổi không lớn, cự ly tiêu chuẩn lên xuống không đáng kể, do đó chúng ta xem được tương đối chuẩn. Nếu người đó hành đại thiện hay đại ác, biến số dao động quá lớn, sẽ không đoán được. Vậy phải làm thế nào để thay đổi vận mạng? Hành thiện lánh dữ.

Phong thủy có thật không?


Có. Người hiện đại nêu ra hai chữ “phong thủy”, cho là rất thần bí, nhưng kỳ thực hai chữ này lại rất bình thường. Hai chữ này có thể được diễn giải chính là “hoàn cảnh cư trú cùng với sự tu dưỡng của chính mình”, tâm tình đều có quan hệ. Mỗi người một ý thích, không tương đồng, người thích nước mà buộc lên núi ở, thì phong thủy của người đó không tốt, hoặc ngược lại, người thích núi bị buộc sống cạnh nước, phong thủy cũng không tốt. Vậy phong thủy tốt là hoàn cảnh mà chúng ta ở đó, cảm thấy vừa lòng, thoải mái.
Không nên bị mắc lừa mà cho rằng tôi sống nơi này không vừa ý, có rất nhiều bất trắc xảy đến. Bất trắc đó chính là nghiệp báo liên hệ rất ít với hoàn cảnh cư trú. Dù ít nhưng hoàn cảnh cư trú cũng thường dẫn đến phiền não. Một gian phòng bài trí tao nhã tạo cảm giác thoải mái cho người vừa bước vào. Gian phòng bừa bộn, dơ bẩn làm cho người bước vào cảm thấy không vui. Vậy thảy có được gọi là phong thủy? Những việc này có thể thay đổi, không cần người khác, lại càng không cần mời thầy địa lý đến để bố trí lại.
Thân mạng chúng ta bị người khác xếp đặt, chính mình không thể làm chủ, thử nghĩ xem đáng thương đến chừng nào. Người trí biết làm chủ chính mình. Trong bữa ăn, chúng tôi trân trọng nhưng sẽ cảm thấy không thoải mái khi được ai đó gắp thức ăn cho mình. Được gắp thức ăn, chúng tôi đã bị trói trong sự xếp đặt, bảo gì ăn nấy, không thể tùy theo sở thích của mình. Tâm lý này khá phổ biến. Chúng tôi thường khuyên người đừng gắp thức ăn, chúng tôi không chịu sự xếp đặt của người khác, có vẻ rất khó nghe. Nhưng nghe rồi liền giác ngộ, liền thông suốt. Chúng ta thích món gì thì khi ăn mới đạt tự tại. Tương tự hoàn cảnh sinh hoạt của mình cũng không nên nghe người khác xếp đặt. Chúng ta tự chọn lựa, cân nhắc, đắn đo, như thế mới được gọi là hiểu phong thủy.
Phong thủy tùy người mà thay đổi, sự thật này ít người thông hiểu. Anh A ở đây thì phong thủy rất tốt, gặp nhiều thuận lợi, gia đình mỹ mãn, sự nghiệp thăng hoa, nhưng anh B đến ở thì chưa chắc, thậm chí có thể gặp nhiều tai nạn. Trung Quốc có câu “bát tự bất nhất dạng”. Vì vậy, điều tiên quyết là sự phối hợp với tu dưỡng của cá nhân. Thói quen sinh hoạt, tâm lý cá nhân, hoàn cảnh vật chất cùng đời sống tinh thần được phối hợp tốt đẹp, đó chính là phong thủy tốt. Đạo lý vốn như vậy, người hiểu rõ đạo lý sẽ không chịu sự xếp đặt của người khác, chính mình hoàn toàn tự chủ bản thân.
Đôi khi thầy xem phong thủy cũng có câu nói qua loa thất trách: “đất phước người phước ở”. Họ xem phong thủy tốt, nhưng sau đó, chúng ta lại gặp điều không may, khi ấy họ dẫn câu trên để phủi trách nhiệm, cho rằng đất phước mà chúng ta không có phước. Vì vậy phải thật thấu hiểu, hà tất phải đi xem phong thủy. Chúng ta chỉ cần chuyên tu phước huệ. Có phước, không luận đến nơi nào, phong thủy sẽ tùy theo ta mà chuyển. Nhà Phật nói “cảnh tùy tâm chuyển” cũng vì đạo lý này. Tâm thiện, hoàn cảnh cư trú không tốt cũng sẽ dần dần biến tốt. Ngược lại, tâm bất thiện, hành vi bất thiện thì dù cư trú nơi phong thủy thật tốt, chúng ta vẫn gặp điều xấu. Vì vậy hãy giữ tâm tốt, hành việc tốt, làm người tốt để được hanh thông trong cuộc đời.

(Trích trong bài giảng Giáo dục-Phong Thủy-Vận mạng
của Lão pháp sư Tịnh Không)

Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ
Chỉnh lý: PT. Giác Minh Duyên



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/07/2021(Xem: 5345)
Vào ngày Thứ Ba (June 22) vừa qua, được sự cho phép của chính quyền địa phương làng Krisna và Pawanpur Village Bihar India, nhóm Từ thiện Bodhgaya Heart chúng con, chúng tôi đã tiếp tục hành trình cứu trợ thực phẩm cho dân nghèo mùa Dịch covid. Xin mời chư vị xem qua một vài hình ảnh tường trình.. Buổi phát quà cứu trợ cho 354 căn hộ tại 2 ngôi làng cách Bồ đề Đạo Tràng chừng 36 cây số.
07/07/2021(Xem: 4621)
Tâm Kinh nói rằng: “Sắc tức là không, không tức là sắc.” Sắc sao lại là không? Không sao lại là sắc? Vấn đề nầy khiến cho mọi người luôn luôn cảm thấy có phần nào khó hiểu; hình như đây là hai đối tượng, đều biến thành cực đoan, làm sao có thể hợp nhau lại thành một được? Nguyên vì chúng ta thường đem vấn đề Sắc trực tiếp tiến hành khảo sát thì có quan điểm để giải thích, còn đem vấn đề Không trực tiếp tiến hành khảo sát thì không có quan điểm để lý giải.
06/07/2021(Xem: 5922)
- Kính thưa chư Tôn đức, chư Thiện hữu & quí vị hảo tâm. Vào ngày Thứ 7 (July 03) vừa qua, chúng con chúng tôi đã thực hiện một buổi phát chẩn tại 2 ngôi Làng Kusa & Niranjan Village. Làng Kusa chính là ngôi làng có ngôi đền Kusa Temple cách Bồ đề Đạo Tràng chừng 6 cây số, đánh dấu nơi ngàn xưa Thế Tôn đã thọ nhận 8 bó cỏ của người nông phu, rồi từ địa điểm đó Ngài đã mang cỏ về trải làm toạ cụ dưới Cội Bồ Đề và tu hành chứng Đạo. Hiện nay dân chúng nơi đây nói riêng và nhiều nơi trên xứ Ấn nói chung vẫn khổ sở vì Dịch Covid còn kéo dài lê thê, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến nên kinh tế của xứ này
06/07/2021(Xem: 5967)
Bài viết này có chủ đề về các pháp thực dụng cho người bệnh nặng, hay đang nằm trên giường cận tử. Trong tình hình dịch bệnh hiện nay, nhiều nơi tại Việt Nam đang phong tỏa và cách ly. Riêng tại Sài Gòn vào đầu tháng 7/2021 đã có 636 điểm phong tỏa, nghĩa là cả nước có cả ngàn điểm phong tỏa để khoanh vùng chống dịch. Do vậy, câu hỏi dễ gặp là: người cư sĩ nên nói gì với một cư sĩ khác đang nằm bệnh hay đang hấp hối? Và nhiều trường hợp khác, tương tự. Một số pháp ghi lại nơi đây thích nghi với cả hàng cư sĩ, trong đó có kinh dạy cho người cư sĩ cách hướng dẫn các pháp quán để người cận tử có thể giải thoát ngay khi lìa đời.
03/07/2021(Xem: 4611)
- Kính thưa chư Tôn đức, chư Thiện hữu & quí vị hảo tâm. Vào ngày Thứ Bảy (June 12) vừa qua, được sự cho phép của chính quyền địa phương làng Durgagar và Armoba Village Bihar India, nhóm Từ thiện Bodhgaya Heart chúng con, chúng tôi đã tiếp tục hành trình cứu trợ thực phẩm cho dân nghèo mùa Dịch covid. Xin mời chư vị xem qua một vài hình ảnh tường trình.. Buổi phát quà cứu trợ cho 358 căn hộ tại 2 ngôi làng cách Bồ đề Đạo Tràng chừng 9 cây số.
03/07/2021(Xem: 5982)
Kính lễ đạo sư và đấng bảo hộ của chúng con, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát! Sự thông tuệ của ngài chiếu soi như mặt trời, không bị che mờ bởi vọng tưởng hay dấu vết của si mê, Ngài giữ trong tim một bộ kinh biểu tượng của việc thấy tất cả mọi thứ như chúng là, Người dạy trong sáu mươi cách, với lòng từ bi yêu thương của một từ thân với đứa con duy nhất, Đến tất cả các tạo vật bị giam trong tù ngục của luân hồi, Bối rối trong bóng tối của si mê, tràn ngập bởi khổ đau của họ.
03/07/2021(Xem: 16574)
Vào thời đại khủng hoảng niềm tin của tất cả tôn giáo, lòng người càng lúc hồi hộp bất an, giáo lý đức Thích Ca Mâu Ni như mặt trời chiều xuống bóng hoàng hôn ,Mật Tông Kim Cang Thừa như ngọn đèn sắp tắt, chỉ còn lại những bộ đại tạng kinh phủ đầy bụi trên những kệ kinh, nằm bất tỉnh không ai hỏi thăm trong những tu viên,viện bảo tàng cô đơn thiếu bóng người. Cuốn sách Mật Tông Kim Cang Thừa Chú Giải Toàn Thư Tập Hai, là sự trình bày và phô diễn mật nghĩa thậm thâm của Đại Phật Đảnh Lăng Nghiêm đà la ni , Bát Đại Kim Cang Thần Kinh và các phụ bản vô thượng du già. Là sự trợ duyên cho những ai, đã có gieo hạt giống pháp môn này, có thể khai hoa kết trái thành tựu sự tu tập giải thoát. Linh Quang từ nhỏ xuất gia tu học , tầm sư học đạo, và đi du học nhiều nước, nên trong đầu nhiều ngôn ngữ lộn qua lộn lại, bây giờ Tiếng Việt cũng quên dần,chính tả viết sai nhiều lắm, nên quý vị thông cảm bỏ qua những lỗi lầm về câu văn từ ngữ.
01/07/2021(Xem: 3820)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm những bí yếu cực kỳ nhiệm mầu, vi diệu mà Chư Phật trao truyền lại cho những ai đủ tín tâm thọ nhận. Pháp-bảo được lưu truyền đến nay, vẫn sáng ngời toả rạng lưu ly qua bao thăng trầm của thế sự vô thường, với tâm nguyện hoằng truyền Chánh Pháp của các bậc minh sư, tuỳ căn cơ chúng sanh mỗi thời mà soạn dịch. Một, trong những bổn kinh Diệu Pháp Liên Hoa thường được trì tụng tại các tự viện là bổn cố đại lão Hoà Thượng Thích Trí Tịnh biên soạn, hoàn tất với 557 trang, gồm 7 quyển, chia thành 28 phẩm , mỗi phẩm đầy đủ văn kinh và thi kệ. Cũng do nhu cầu và phương tiện tu học của Phật tử mà Hoà Thượng Thích Trí Quảng cũng đã lược soạn Diệu Pháp Liên Hoa Kinh thành Bổn Môn Pháp Hoa Kinh để Phật tử tại các Đạo Tràng Pháp Hoa có thể hàng ngày trì tụng mà không bị gián đoạn vì không đủ thời gian. Bổn Môn Pháp Hoa Kinh được Hoà Thượng trân trọng biên soạn, cô đ
29/06/2021(Xem: 6202)
Kính Pháp Sư Sướng Hoài, tôi tu sĩ Thích Thắng Hoan đọc qua tác phẩm PHẬT HỌC VĂN TẬP của ngài viết nhận thấy ngài một nhà bác học uyên thâm Phật giáo nắm vững mọi tư tưởng cao siêu của cácphái, các tông giáo cả trong đạo lẫn ngoài đời. Toàn bộ tác phẩm của ngài đều xây dựng vững chắc trên lãnh vực biện chứng pháp của Nhân Minh Luận. Nội dung tác phẩm trong đó, mỗi một chủ đề ngài biện chứng bằng những lãnh vực mặt phải mặt trái, chiều sâu chiều cạn, mặt phủ định, mặt xác định,cuối cùng để làm sáng tỏ vấn đề bằng kết luận. Tôi vô cùng kính nể kiến thức của ngài.
29/06/2021(Xem: 6384)
Phật giáo dùng từ bi làm căn bản, xem trọng giới sát nên thực hành phóngs anh.Từ nghĩa là trao cho khoái lạc; Bi nghĩa là san bằng khổ não. Người đời rất quý mến thân mạng, chồng vợ con cháu, tiền của, nhưng từ chối mỗi người không thể che chở bao gồm chung cả. Giả như nếu bất hạnh gặp gian nguy, vì cứu thân mình, thà bỏ tất cả vật ngoài thân, để cầu được sinh tồn riêng mình.Con người đã tham sống sợ chết, sanh mạng con vật nhỏ bé như con muỗi, con ve, sâu bọ, kiến mối, còn biết tránh chạy cái chết cầu mong được sống, thì các động vật khác chúng nó sao lại không như thế?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]