Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đôi nét về Cư sĩ Keith Dowman, nhà Dịch thuật Kinh điển Phật giáo

01/12/202017:02(Xem: 6145)
Đôi nét về Cư sĩ Keith Dowman, nhà Dịch thuật Kinh điển Phật giáo

Đôi nét về Cư sĩ Keith Dowman, nhà Dịch thuật Kinh điển Phật giáo

 Cư sĩ Keith Dowman 1

Cư sĩ Keith Dowman sinh năm 1945, gốc người Anh, tinh hoa Phật giáo, một vị giáo thụ giảng dạy Thiền Đại Viên Mãn (Dzogchen; 大圓滿), theo truyền thống Ninh Mã, Phật giáo Kim Cương thừa, Mật tông Tây Tạng, dịch giả các kinh điển Phật giáo Tây Tạng.

 

Cư sĩ Keith Dowman đang cư ngụ tại Kathmandu, Nepal, nơi ông đã sống trong 25 năm. Các bản dịch của ông từ tiếng Tây Tạng.

 

Ông đã thực hành Phật giáo Kim Cương thừa Phật giáo Mật tông Tây Tạng hơn 30 năm, cùng hài hòa chung sống giữa những người Newars, người Tây Tạng và Phật tử phương Tây các quốc gia Ấn Độ, Nepal và Tây Tạng.

 

Là một người tỵ nạn Tôn giáo từ quê hương Vương quốc Anh, ông đã vân du đó đây hành hương chiêm bái xứ Phật huyền bí trên đất liền đến Ấn Độ vào năm 1966, nơi ông khám phá thực hành tôn giáo ở Banares, Ấn Độ, trong vài năm trước khi bái kiến các vị Lạt Ma Phật giáo Tây Tạng tỵ nạn ở những nơi linh thiêng miền Bắc Ấn Độ. Sau đó, ông theo học chuyên Khoa ngữ văn ngôn ngữ Tây Tạng tại Ba La Nại (Benares), một thành phố thánh và là trung tâm trong suốt hàng ngàn năm của Hindu giáo nằm bên bờ sông Hằng ở bang Uttar Pradesh, Ấn Độ. Ngoài việc thỉnh thoảng trở về phương Tây, ông đã dành  cả đời ở Ấn Độ và Nepal để tham gia vào Phật pháp hiện sinh. Gắn liền với đời sống của ông như người luyện tập Yoga (Yogini), một  vị tăng sĩ Phật giáo, một người hành hương, và sau đó là một chủ hộ gia đình, và như một học giả, nhà thơ mà không có mọi ràng buộc về thể chế chính trị.

 

Tại Ấn Độ vào sau giữa thế kỷ 20, sau những thập niên 1960, định mệnh của ông là gặp gỡ những người Tây Tạng tỵ nạn, trong đó có Đức Đạt Lai Lạt Ma sang Ấn Độ sau cuộc cưỡng chiếm xâm lược Tây Tạng của nhà cầm quyền Đảng Cộng sản Trung Quốc. Trong những năm gian khổ đầy khó khăn khi các vị Lạt Ma đã thu nhận các môn đồ người phương Tây. Ông quy y tam bảo và được đạo sư Tartang Tulku truyền trao giới pháp và trở thành Phật tử. Ông được Thiền sư Anāgārika Shri Munindra (1915-2003) dạy thực hành Kriya Yoga và thiền vipassanā.

 

Thiền sư Anāgārika Shri Munindra, người Ấn Độ gốc Bengal, một bậc thầy tràn đầy trí tuệ và từ bi, một trong những thiền sư Á Châu ưu tú nhất trong kỷ nguyên truyền bá Phật pháp sang Âu Mỹ đồng thời cũng là một du sĩ Ấn Độ đầu tiên đem Giáo Pháp Nguyên Thủy trở về hoằng dương ngay tại đất nước mà đạo Phật đã khởi sinh và hầu như đã bị mai một trong gần mười thế kỷ nay.

 Cư sĩ Keith Dowman 3

Sau khi kết nối với Phật giáo Tây Tạng, ông đã giao lưu và được sự đào tạo bởi nhiều vị đạo sư Tây Tạng, bao gồm các vị Thánh tăng Dudjom Rinpoche Jigdral Yeshe Dorje (1904-1987), Kyabje Kangyur Rinpoche (1898-1975), Longchen Yeshe Dorje. Ông đã nhiều năm sống gần các bậc đạo sư này ở Darjeeling, một thành phố thuộc bang Tây Bengal của Ấn Độ. Ông học tiếng Tây Tạng Cổ điển tại Đại học Queens College, Đại học Sanskrit, ở Varanasi, Ấn Độ, dưới thời Lạt Ma Jamspal.

 

Năm 1973, ông đến thăm Trung tâm Phật giáo thuộc truyền thống Ninh Mã, Phật giáo Kim Cương thừa Tây Tạng, Berkeley, California, Hoa Kỳ, các bản dịch của ông được xuất lần bản đầu tiên dưới sự bảo hộ của đạo sư Tartang Tulku, trong khi ông giảng dạy về ngôn ngữ Tây Tạng tại Đại học Sonoma (Sonoma State University) tại Rohnert Park, California, Hoa Kỳ.

 

Năm 1974, ông chuyển đến Kathmandu, thành phố, thủ đô Nepal, và nhập thất chuyên tu thiền hai năm. Tại Boudhanath, một bảo tháp ở Kathmandu, Nepal, ông bắt đầu dịch thuật chuyên sâu các văn bản tiếng Tây Tạng trong mười năm.

 

Cư sĩ Keith Dowman đã trước tác và dịch thuật tập trung vào các khía cạnh khác nhau của Phật giáo Tây Tạng và văn hóa Tây Tạng, bao gồm cả văn học du ký, đặc biệt về giáo lý Phật giáo Kim Cương thừa và truyền thống thiền Đại Viên Mãn. Trong các tác phẩm sau này, ông càng tập trung vào truyền thống thiền Đại Viên Mãn và đặc biệt là các tác phẩm bởi các học giả, bậc đạo sư truyền thống Ninh Mã, Đấng Toàn Tri Longchenpa hay Longchen Rabjam (1308-1363) vào thế kỷ 14.

 

Trong những thập niên 1980, ông tập trung vào các bản dịch của nhiều tác phẩm kinh điển Phật giáo Kim Cương thừa. Khi Tây Tạng mở cửa, ba năm bộ hành theo mùa ở miền trung Tây Tạng, nhờ một hướng dẫn viên tháp tùng hành hương chiêm bái Thánh tích Phật giáo Tây Tạng.

 

Vào mùa hè của những thập niên 1985-1988, ông đã dành thời gian để hành hương chiêm bái các thánh tích Phật giáo Tây Tạng, theo lộ trình hành hương Trung Hoa-Tây Tạng thế kỷ 19 của Lạt Ma Khyentse Wangpo (1820-1892), ghi lại sự tàn phá và tàn tích của Tu viện lớn, các ẩn thất và các địa điểm hang động. Những di tích ở miền Trung Tây Tạng. . .

 

Kể từ những thập niên 1992-1993, ông đã giảng dạy và hướng dẫn các khóa tu nhập thất về Phật giáo Kim Cương thừa Mật tông Tây Tạng, và Thiền Đại Viên Mãn trên khắp thế giới, thường xuyên là các quốc gia Nepal, Israel, Châu Âu, Hoa Kỳ.

 

Hiện nay, ông đang cư ngụ ở Kathmandu, thành phố, thủ đô của Nepal, ông sống kiểu lưu động và chuyên tâm vào việc giảng dạy Phật giáo Kim Cương thừa. Đặc biệt, ông chú tâm vào Thiền Đại Viên Mãn nguồn gốc từ các Tantra (怛特羅) có nghĩa là "tấm lưới dệt", "mối liên hệ", "sự nối tiếp", "liên tục thống nhất thể" và cũng thỉnh thoảng đồng nghĩa với thành tựu pháp) ban đầu của truyền thống Ninh Mã thoát khỏi khuynh hướng chủ nghĩa Duy vật tâm linh. Thiền Đại Viên Mãn này, biểu lộ trong “Toàn Thiện Tự nhiên”, thì dễ đồng hóa vào văn hóa Tây phương và cung cấp chìa khóa cho một phục hưng của huyền học Tây phương.

 

Một trong những câu nói nổi tiếng của ông: “Thiền Đại Viên Mãn, trung tâm của Phật giáo, giải phóng chúng ta khỏi những ràng buộc về tôn giáo và văn hóa, nơi chỉ đơn giản là thông điệp giải phóng tất cả mọi ràng buộc về vật chất và tư tưởng.

 

Tâm trí không bị ràng buộc bởi những nhận thức định kiến về thực tại và suy nghĩ sai lầm về việc đã biết tất cả. Thay vào đó, tâm trí trống rỗng và cởi mở với những khả năng mới. Điều này cho phép tiếp thêm năng lượng và học hỏi từ đó. Quan điểm Thiền Đại Viên Mãn cấp tiến, và thiền định dành riêng cho những người chuyên chú tâm, với bản thể tự tâm”.

 

Những tác phẩm:

 

- The Great Secret of Mind: Special Instructions on the Nonduality of Dzogchen, by Tulku Pema Rigtsel, (translated and edited by Keith Dowman). Snow Lion, New York, 2012 ISBN 978-1-55939-401-7

 

- Spaciousness: The Radical Dzogchen of the Vajra Heart (Longchenpa’s Treasury of the Dharmadhatu). Vajrabooks, Kathmandu 2013. ISBN 978-9937-506-97-7

 

- Maya Yoga: Longchenpa's Finding Comfort and Ease in Enchantment, Vajrabooks, Kathmandu, 2010. ISBN 978-9937-506-45-8

 

- Old Man Basking in the Sun: Longchenpa's Treasury of Natural Perfection, Vajrabooks, Kathmandu, 2006. Republished as Natural Perfection: Longchenpa's Radical Dzogchen, Wisdom Publications, Boston, MA, 2010. ISBN 978-99946-644-9-8

 

- Eye of the Storm: Vairotsana's Five Original Transmissions, trans. & comm. Vajrabooks, Kathmandu, 2006. Republished as Original Perfection: Vairotsana's Five Early Transmissions, Wisdom Publications, Boston, MA, 2013. ISBN 99946-644-8-4

 

- The Sacred Life of Tibet, HarperCollins, London, 1997. ISBN 978-0722533758

 

- Power-places of Kathmandu, with Kevin Bubriski, Inner Traditions International, Rochester, Vermont, and Thames & Hudson, London, 1995. ISBN 978-089281-540-1

 

- Flight of the Garuda: The Dzogchen Tradition of Tibetan Buddhism, Wisdom, Boston, 1993. ISBN 0-86171-085-1

 

- Masters of Enchantment, (illustrated by Robert Beer) Penguin, London 1989. ISBN 0-89281-784-4

 

- The Power-places of Central Tibet: The Pilgrim's Guide, Routledge & Kegan Paul Ltd., London & New York 1988. ISBN 0-7102-1370-0

 

- Masters of Mahamudra: Songs and Histories of the Eighty-four Buddhist Siddhas, State University of New York Press, Albany, NY., 1985. ISBN 0-88706-160-5

 

- Sky Dancer: The Life and Songs of Yeshe Tsogyel, RKP, London 1983; Arkana Series, Penguin 1991; Snow Lion, New York, 1997. ISBN 1-55939-065-4[7]

 

- The Divine Madman: The Life and Songs of Drukpa Kunley, trans., Rider & Co., London, 1982 and Dawn Horse Press, U.S.A., and Pilgrim’s Publishing, Kathmandu 2000. 1983, 1998; Dzogchen Now! Books, Amazon, 2014. ISBN 0-913922-75-7

 

- The Legend of the Great Stupa, trans., Dharma Publishing, Berkeley, 1973. ISBN 978-0-89800-344-4

 

Thích Vân biên dịch

(Nguồn: The Wisdom Experience)

 



***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 10733)
Trong đời sống hằng ngày, chúng ta thường nghe hay thường quen miệng nói đến hai chữ "tu dưỡng’ chẳng hạn như:"Con nên tu dưỡng tánh tình để thành người có đức hạnh" hay:"Nó hư, vì khôn gbiết tu tâm, dưỡng tánh". Hai tiếng"tu dưỡng" thường đi đôi với nhau, nên chúng ta thấy mường tượng như chúng nó giống nghĩa nhau, có một phạm vi, một tác dụng riêng biệt. Tu là sửa, mà dưỡng là nuôi. Người ta sửa cái xấu, mà nuôi cái tốt_Sữa là trừ, mà nuôi là cộng; tu có tánh cách tiêu cực, dưỡng tánh có tánh cách tích cực. Một bên tiêu trừ cái xấu, một bên bồi bổ cái tốt. Một bên làm cho hết hư, một bên làm cho thêm nên. Mọi sự vật trong đời tương đối nầy đều có phần xấu và phần tốt. Đối với cái xấu ta phải tu, đối với cái tốt ta phải dưỡng. Chẳng hạn, khi ta trồng một cây gì, công việc của chúng ta có hai phần lớn: bắt sâu bọ, trừ nước phèn, nước mặn: đó là tu hay sửa. Bỏ phân, tưới nước ngọt, cho nó đủ thoáng khí và ánh nắng mặt trời: đó là bổ hay dưỡng. Tu bổ một cái cây, cho nó đơm hoa kết trái,
08/04/2013(Xem: 10232)
Tôi rất vui mừng, vì thấy mỗi ngày chủ nhật, quý vị bơ thì giờ quý báu, để đến chùa lạy Phật nghe kinh, Một giờ quý vị lạy Phật nghe kinh, thì ngày ấy hay tháng ấy quý vị tránh được việc dữ, làm được điều lành. Một người tránh dữ làm lành, thì người ấy trở nên hiền từ. Cả gia đình đều tránh dữ làm lành, thì gia đình được hạnh phúc. Cả nước đều tránh giữ làm lành thì toàn dân có đạo đức, trở nên một nước thạnh trị. Cả nhơn loại đều tránh dữ làm lành, thì lo chi thế giới chẳng được đại đồng, nhơn loại không hưởng được hạnh phúc thái bình.
06/04/2013(Xem: 9875)
Phật Giáo đưa ra nhiều quan điểm khá khác biệt nhau về cái chết. Nếu đã có nhiều quanđiểm khác nhau thì tất nhiên cũng sẽ phải có nhiều phép tu tập khác nhau. Thếnhưng cái chết cũng chỉ là một hiện tượng duy nhất, vậy chúng ta hãy thử tìmhiểu xem tại sao Phật Giáo lại có nhiều quan điểm và nhiều phép tu tập như thế.
05/04/2013(Xem: 5543)
Hẳn bạn hay chú trọng những chuyện đưa tới sai lầm trong đời, hay ít nhất những gì xảy ra không như ý muốn. Dù khổ đau cứ tái diễn chúng ta vẫn phải tiếp tục phấn đấu vượt qua để đạt tới hạnh phúc và theo đuổi chúng ngay khi ta nghĩ tới.
05/04/2013(Xem: 7714)
Đức Phật là một đấng đại Từ Bi, Ngài xem tất cả chúng sinh mọi loài như con một. Lòng yêu thương chúng sinh của Đức Phật trong Kinh Lăng Nghiêm có nói, như mẹ thương con, chỉ mong làm sao cho con mình được hết tất cả khó và hưởng tất cả vui, cho nên trong Kinh Hoa Nghiêm nói ...
04/04/2013(Xem: 6684)
Không nghĩ thiện, không nghĩ ác” “Không nghĩ thiện không nghĩ ác” không phải là không có thiện không có ác. Có thiện có ác quá đi chứ! Nếu không sao bảo “Chư ác mạc tác – Chúng thiện phụng hành” (Chớ làm điều ác – Hãy làm điều thiện)?
04/04/2013(Xem: 4978)
Hoằng pháp là một công tác quan trọng để con người thấm thuần chánh pháp, giác ngộ giáo lý của chư Phật. Đức Phật Thích Ca sau khi thành đạo, ngài cũng nghĩ đến việc hoằng pháp trước tiên, chính vì thế nên Ngài thành lập Giáo hội Tăng già để chư Tăng lên đường hoằng dương chánh pháp.
04/04/2013(Xem: 5882)
Có một cô thiếu nữ người Pháp, sinh ra ở một tỉnh cách làng Hồng độ chừng hai trăm cây số. Khi lớn lên, tới 19 tuổi, cô bỏ gia đình, bỏ nước Pháp, đi sang nước Anh để sinh sống. Người thiếu nữ Pháp đó giận mẹ, giận gia đình, giận luôn cả tổ quốc. Cô sang bên Anh sống như vậy luôn hai mươi năm.
04/04/2013(Xem: 8556)
Hôm nay là ngày sám hối lệ. Tất cả các Phật tử đến đây tụng kinh, nghe thuyết pháp và hành thiền. Đây là chương trình tu học mỗi tháng hai kỳ vào ngày 14 và 29 Âm lịch cho cư sĩ. Những bậc xuất gia có 2 ngày là 15 và 30 hàng tháng để làm lễ sám hối.
03/04/2013(Xem: 7530)
Tôi là một người sống độc thân (và không có con), năm nay tôi 50 tuổi. Tôi sinh sống ở Virginia thuộc Hoa Thịnh Ðốn, sức khỏe đầy đủ và tôi có một việc làm vững chắc. Tôi có một người cha 85 tuổi, sống tại Houston , Texas .
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]