Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đôi nét về Cư sĩ Rob Nairn, vị Thẩm phán Trẻ tuổi nhất tại Rhodesia, Giáo sư Phật học Uyên thâm

29/11/202015:32(Xem: 7050)
Đôi nét về Cư sĩ Rob Nairn, vị Thẩm phán Trẻ tuổi nhất tại Rhodesia, Giáo sư Phật học Uyên thâm

Đôi nét về Cư sĩ Rob Nairn, vị Thẩm phán Trẻ tuổi nhất tại Rhodesia,
Giáo sư Phật học Uyên thâm

 Cư sĩ Rob Nairn 01

Cư sĩ Rob Nairn, vị Luật sư, Thẩm phán Trẻ tuổi nhất tại Rhodesia, Giáo sư Phật học uyên thâm, tác giả, nhà nghiên cứu dân số. Ông sinh ra và lớn lên tại Rhodesia. Ông là môn đồ của Phật giáo Kim Cương Thừa Mật tông Tây Tạng, thuộc dòng truyền thừa Karma Kagyu.

 

Cư sĩ Rob Nairn, người đại diện cho Hòa thượng Tiến sĩ Akong Rinpoche tại Châu Phi (Chöje Akong Tulku Rinpoche,1939-2013, người sáng lập Tu viện Samye Ling Scotland), với trách nhiệm giảng dạy 11 Trung tâm Phật học tại bốn quốc gia Châu Phi. Mục tiêu của ông là giảng dạy thiền và Phật giáo Tây Tạng cho tất cả những ai yêu mến đạo Phật, cũng như ở cấp độ đại học và hậu đại học ở các quốc gia như Vương quốc Anh, Ireland, Châu Phi và Hoa Kỳ thông qua các trường Đại học và các Trung tâm Phật học.

 

Sự kết hợp độc đáo giữa đào tạo và kinh nghiệm về luật học, tâm lý học, logic học cũng như hướng dẫn bởi các vị Thiền sư lỗi lạc, cho phép ông giảng giải các khái niệm truyền thống Phật giáo từ góc độ tâm lý học phương Tây.

 Cư sĩ Rob Nairn 2

Giáo dục Học thuật và Nghiệp vụ Pháp luật

 (Academic education and legal career)

 

Tốt nghiệp Đại học Rhodesia, Cộng hòa Zimbabwe với bằng Cử nhân (Hons), (Luân Đôn), Cư sĩ Rob Nairn đã được nhận Học bổng Khối thịnh vượng chung (CSC) cho các nghiên cứu sinh hậu đại học tại Vương quốc Anh, và tiếp tục học chuyên ngành Tội phạm học, Tâm lý học và Luật học tại Đại học King's College London (KCL), và nhận bằng tốt nghiệp sau đại học ngành Tội Phạm Học từ Đại học Edinburgh, một trong những trường đại học cổ đại của Scotland. Sau đó, ông trở về quê hương Cộng hòa Rhodesia để trở thành vị Luật sư biện hộ cho Tòa án Nhân dân Tối cao của quốc gia này.

 

Năm 21 tuổi, Cư sĩ Rob Nairn đã được bổ nhiệm làm Thẩm phán, lúc bấy giờ cho thấy tiền lệ chưa từng có vị Luật sư, Thẩm phán trẻ tuổi nhất tại Rhodesia. Ông tiếp tục trở thành vị trợ lý đắc lực, Thư ký riêng cho Bộ trưởng Bộ Tư pháp nước Cộng hòa Rhodesia, và là giảng viên cao cấp về Luật và Giáo sư Luật học, chuyên ngành Tội phạm học tại Rhodesia.

 

Chuyển đến Nam Phi, Cư sĩ Rob Nairn trở thành giảng viên cao cấp, Giáo sư ngành Luật học tại Đại học Cape Town, sau đó là Giáo sư ngành Luật học, Tội phạm học đồng thời là Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Tội phạm và Điều tra Tội phạm tại cùng một cơ sở.

 

Năm 1979, Cư sĩ Rob Nairn xuất bản một bài báo "To Read or Not to Read, Aspects of Prisoners' Rights" (Nghiên cứu hoặc không nghiên cứu, các khía cạnh Quyền của Tù nhân), trong đó vạch trần sự bất hợp pháp trong luật pháp quốc tế đối với pháp luật ở Nam Phi, cho phép các quan chức nhà tù từ chối đọc tài liệu tù nhân. Bài báo này đã được báo chí Hoa Kỳ săn đón, khiến Chính phủ phân biệt chủng tộc phải bối rối. Kết quả là Cư sĩ Rob Nairn bị cấm vào các nhà tù ở Nam Phi, và tách ông ra khỏi nghiên cứu chuyên ngành của mình.

 Cư sĩ Rob Nairn 1

Với tư cách là vị giáo sư Luật học, và từng là Thẩm phán cũng như công tác tại cơ quan Bộ Tư pháp, Cư sĩ Rob Nairn thường nhắc nhở về quyền căn bản của  con người: “Quyền đối với dữ liệu cá nhân (the right to personal data, hay quyền bảo vệ dữ liệu cá nhân/quyền về sự riêng tư với dữ liệu cá nhân) là một phần cốt yếu của quyền về sự riêng tư (the right to privacy) của con người. Quyền về sự riêng tư là một quyền con người cơ bản, có tầm quan trọng thiết yếu để bảo đảm sự tự chủ và bảo vệ phẩm giá của con người.

 

Quyền này giúp mỗi cá nhân tạo lập và kiểm soát ranh giới chính đáng với những người khác, từ đó bảo vệ bản thân trước những sự can thiệp tùy tiện trong cuộc sống, đồng thời cho phép mỗi cá nhân xác định mình là ai và cách thức mà bản thân muốn tương tác với thế giới xung quanh. Đối với xã hội, bảo vệ quyền về sự riêng tư của mỗi thành viên cũng chính là tạo lập và bảo vệ nền tảng của đời sống cộng đồng. Một cộng đồng không thể tồn tại nếu các thành viên của nó không được bảo vệ khỏi những hình thức lạm dụng. Theo nghĩa đó, bảo vệ quyền về sự riêng tư của mỗi cá nhân góp phần bảo đảm tính dân chủ, văn minh và sự phát triển ổn định, hài hòa của xã hội. Vì thế, quyền về sự riêng tư ngày nayđã trở thành một trong những vấn đề nhân quyền quan trọng.”

 

Con đường Phật giáo

(Buddhist path)

 

Sau khi Đức Akong Tulku Rinpoche (1939-2013) viên tịch, Cư sĩ Rob Nairn chịu trách nhiệm quản lý điều hành và giảng dạy 11 Trung tâm Phật học ở Nam Phi và ba quốc gia châu Phi khác.

 

Sau giữa thế kỷ 20, những thập niên 1960, đầu tiên Cư sĩ Rob Nairn tiếp cận với Phật giáo Thượng tọa bộ (theravādins), ông đã tu tập theo truyền thống này trong khoảng 10 năm. Ông nghiên cứu triết học tâm lý học và logic học Phật giáo, đồng thời trau dồi kiến thức và trải nghiệm thực hành thiền định dưới sự hướng dẫn của các vị giáo thụ ở Ấn Độ, Vương quốc Anh, Châu Phi và Scotland, bao gồm cư sĩ Joseph Goldstein, một trong những thiền sư Minh Sát Tuệ (Vipassana) đầu tiên của Mỹ, đồng sáng lập trung tâm thiền Insight Meditation Society, Hòa thượng Khun Sobhana, Dhammasuddhi, Thái Lan, và Ni trưởng Ayya Khema (1923-1997).

 

Tại Tu viện Kagyu Samyé Ling, một tu viện của Phật Giáo Tây Tạng có sự liên hệ với trường Kagyu toạ lạc tại thành phố Eskdalemuir gần Langholm, Scotland. (Scotland là một nước tại phía tây bắc của Âu Châu, chung một biên giới về phía nam với nước Anh), với những năm tháng ngày dài miệt mài nghiên cứu Phật học chính thức của ông, bao gồm nhiều khía cạnh như lịch sử Phật giáo, triết học, tâm lý học và logic. . . nơi các vị Đạo sư hướng dẫn như các vị Lama Khentin Tai Situpa, Lama Thrangu Rinpoche, Lama Tiến sĩ Akong Tulku Rinpoche, Lama Yeshe Rinpoche, Lama Ganga và Ken Holmes.

 

Năm 1969, Cư sĩ Rob Nairn đã được Đức Đạt Lai Lạt Ma hướng dẫn cách tu tập thiền định và giảng dạy Phật học. Năm 1979, ông được Đức Gyalwa Karmapa thứ 16 hướng dẫn tu tập thiền tuệ. Với sở học Phật pháp uyên thâm, kinh nghiệm tu tập thiền định thâm niên, Cư sĩ Rob Nairn đã dành phần lớn thời gian của mình để giảng dạy và tổ chức các khóa tu ở Nam Phi và các quốc gia Vương quốc Anh, Ireland, Iceland, Hoa Kỳ, Ý, Hà Lan và Đức.

 

Những năm sau đó, từ những thập niên 1989 đến 1993, ông tham gia một khóa tu nhập thất cổ truyền độc cư tại Tu viện Kagyu Samyé Ling, một tu viện của Phật Giáo Tây Tạng có sự liên hệ với trường Kagyu toạ lạc tại thành phố Eskdalemuir gần Langholm, Scotland, dưới sự hướng dẫn của các vị Lạt Ma, nơi ông học và thực hành các phương pháp thiền cổ truyền của Tây Tạng thuộc truyền thống Đại Thủ ấn, tông phái Karma Kagyu.

 Cư sĩ Rob Nairn 3

Các tác phẩm đã xuất bản:

 

- Living, Dreaming, Dying, ISBN 0-9584348-9-1

 

- Diamond Mind, ISBN 0-9584166-3-X

 

- Tranquil Mind, ISBN 0-9585057-1-3 (translated into Afrikaans as 'n Stil Gemoed, ISBN 0-9584166-2-1). This book has also been translated into German, Italian, Shona, Spanish, Czech, Dutch and Portuguese.

 

- What Is Meditation?, ISBN 1-57062-715-0

 

- Pfungwa Dzakagadzikana, translation of Tranquil Mind in Shona, the first Buddhist book published in an African language - not for sale but free for distribution. More information on the Kairon Press site

 

- From Mindfulness to Insight (2019) ISBN 978-1-61180-679-3

 

DVDs:

 

- Psychology of Buddhism, ISBN 0-9585057-4-8

 

- Psychology of meditation, ISBN 0-9585057-3-X

 

Lip video:

 

Rob Nairn: Thoughts, Thinking, Engagement

https://www.youtube.com/watch?v=iwk_lCnqv98&feature=emb_logo

 

The Importance of Insight with Rob Nairn - Episode 1

https://www.youtube.com/watch?v=u0k87fVfyzY

 

Thích Vân Phong biên dịch

(Nguồn: Kagyu Samye Dzong Randburg)




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/01/2019(Xem: 8086)
Trong kho tàng văn chương truyền khẩu hay huyền thoại Việt Nam đã có nhiều chuyện duyên-nợ. Chẳng hạn chuyện tích Mưa Ngâu mà dân gian đã có thơ truyền tụng: Tục truyền Tháng Bảy mưa ngâu. Con Trời lấy đứa chăn trâu cũng phiền. Một rằng duyên hai là rằng nợ. Sợi xích thằng ai gỡ cho ra.
17/01/2019(Xem: 7923)
Có nhiều người cho rằng cầu an cầu siêu là mê tín dị đoan rồi chê bai ... đối với những người đi cầu an cầu siêu. Lại có không ít người chưa hiểu biết về chuyện cầu an cầu siêu rồi lại rất cuồng tín, thậm chí làm ra những việc còn mang nhiều tội lỗi hơn như việc giết hại sinh vật cúng tế, đốt nhiều vàng bạc .... rồi muốn cầu Phật Thánh Thần ... gia hộ, thế nhưng tất cả những người trên ấy đều vô minh không thể mang lại phước đức mà còn tốn tiền, tốn thời gian và mất tiền của đã không có phước mà phải mang thêm tội lỗi chồng chất.
17/01/2019(Xem: 6466)
Có những kỷ niệm ta tưởng đã được cất giấu tận đáy sâu tâm hồn và sẽ phải mờ theo thời gian, theo sự đổi thay, sự trưởng thành của ta , nhưng không .....nó không hoàn toàn mất đi ...mà thật ra vẫn tồn tại trong cơ thể ta qua những hình thức vật lý hay khuôn mẫu mà ta ứng xữ và đó cũng chính là nguyên tắc mà tôi đã học về nghiệp ....hay nói đúng hơn là những trải nghiệm trong cuộc đời ....
15/01/2019(Xem: 15289)
“Một nữ cư sĩ đến gặp vị thầy trụ trì và nói: "Bạch Thầy, Con không đi chùa nữa!" Vị Thầy hỏi: – Vậy à, Đạo hữu có thể cho thầy biết lý do không?
14/01/2019(Xem: 8328)
Tiếng Việt thời LM de Rhodes - (phần 13) vài nhận xét về cách dùng tên bộ phận cơ thể ở phía dưới như lòng, bụng, dạ, ruột[1] cho đến vật âm mình! Nguyễn Cung Thông[2] Phần này bàn về một số cách dùng trong tiếng Việt như lòng, bụng, dạ, ruột thời các LM Alexandre de Rhodes và Jeronimo Maiorica sang An Nam truyền đạo. Đây là những ‘cầu nối’ để có thể giải thích một số cách dùng hiện đại. Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là ba tác phẩm của LM de Rhodes soạn: cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đôn Kinh (viết tắt là BBC) và từ điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra từ điển này trên mạng, như trang này chẳng hạn http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false .
14/01/2019(Xem: 7133)
Bài này là phần 4 trong loạt bài viết về hiện tượng đồng hóa âm thanh trong ngôn ngữ với tâm điểm là tiếng Việt. Phần 1 bàn về khuynh hướng đồng hoá âm thanh (phụ âm) qua các cách dùng ròng rọc < rọc rọc, phưng phức < phức phức, nơm nớp < nớp nớp, phấp phất/phất phới/phân phất < phất phất và khám bệnh < khán bệnh. Phần 2 bàn về khuynh hướng đồng hoá âm thanh (thanh điệu) qua các cách dùng Huyền Trang < Huyền Tảng/Tráng, Tịnh Độ < Tịnh Thổ. Phần 3 chú trọng vào cách dùng tẩm liệm so với tấn/ tẫn/tẩn liệm qua khuynh hướng đồng hoá âm thanh (phụ âm) như khán bệnh > khám bệnh. Bài này (phần 4) bàn về các dạng phong thanh (phong thinh), phong phanh và phong văn.
11/01/2019(Xem: 6480)
Trước khi bàn về ma, chúng ta thử định nghĩa xem “ma” là gì. Thông thường, ma là người đã chết hay người chết. Đang sống thì là người. Nhưng vừa chết một cái đã thành ma, thây ma. Chính vì thế đám ma là nghi thức hoặc tục lệ để khóc than, để tang, thăm viếng, tiễn đưa hoặc chôn cất, hỏa thiêu người chết.
11/01/2019(Xem: 7084)
Sống chung với nghịch cảnh, đương đầu với chướng duyên, gẫm ra đó cũng chính là một pháp môn tu trong tám vạn bốn ngàn pháp môn của Đức Phật truyền dạy. Người đã tu học theo Pháp Phật thì chẳng còn lạ gì chuyện “sống chung” và “đương đầu” này! Nhờ chướng duyên mà ta mới thấm thía được lý nhân quả. Nhờ nghịch cảnh mà ta mới nhận thấy rõ vô thường.
09/01/2019(Xem: 5909)
HƯƠNG NHẠC ĐẠI NGÀN Ngàn mùi hương, chỉ có hương giới hạnh mới bay ngược làn gió; vạn âm ba, gió rít đại ngàn hay sóng âm biển khơi mới tồn tại miên trường. Âm nhạc đời thường chỉ là cơn sóng xô giạt tiếp nối theo từng thời đại, có lúc chìm lặng lãng quên, có lúc mơ hồ thổn thức.
09/01/2019(Xem: 5742)
Thơ Báo Ơn Khóa Tu Báo Ơn năm nay Chúng con tu tập những ngày mùa đông Tại Chùa Tam Bảo ấm nồng Pháp thoại chia sẻ với lòng lạc an
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]