Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vầng Sáng Sao Mai.

17/11/202020:57(Xem: 3403)
Vầng Sáng Sao Mai.

VẦNG  SÁNG  SAO  MAI.
buddha-581

Tại sao? Tại sao có sanh già, bệnh chết?

Tại sao nhân loại phải khổ đau?

Tại sao đế vương quyền uy cũng không tránh khỏi lìa xa vương vị?cha ta, vua một thị tộc tại Ca Tỳ La Vệ rồi cũng vậy sao?

Tại sao giai cấp Sát đế Lị quyền uy hơn Thủ Đa la?

Tại sao?....

                                                  ***

Chàng Đạo sĩ bỏ quên râu tóc sau nhiều năm nghiền ngẫm, chiêm nghiệm sự tuần hoàn, bất toàn trong cuộc sống.Một góc rừng kia, củi đang cháy, khói bốc lên thịt người khét mùi lợm giọng; thân ta đây, xác chết kia, khác nhau cái gì, toàn mùi xú uế. Phải chăng phấn son trong hoàng cung che đậy sự bất tịnh.Cung phi mỹ nữ, đàn ca hát xướng che đậy sự than khóc thống thiết của kiếp nhân sinh? Cuộc sống và kiếp người chỉ toàn ảo vọng được trang trí sắc hương đánh lừa cảm giác.Giàu nghèo là vỏ bọc để phân chia giai cấp, vị thế trong xã hội,khi mà nước mắt cùng mặn,máu cùng đỏ, khổ đau như nhau, về với cát bụi, ai cũng như ai, giàu sang mà chi, nghèo hèn là chi???

 Bềnh bồng trước gió xuyên qua rừng khổ hạnh;chàng vén lọn tóc dợn sóng, xỏa qua hai vai, từ tốn nhìn quanh khắp núi xanh, các lão tu bá nạp, y áo không đủ lành lặn, vẫn an nhiên nhắm  mắt, thần thức lạc vào chốn hư vô tĩnh mịch.Các vị thầy vẫn nghiền ngẫm theo dõi hơi thở, luyện tập hatha  yoga, có vị tập Karma Yoga, Mantra Yoga, Jnana Yoga, Bhakti Yoga, Tantra Yoga, Raja Yoga .. đều đạt đến một kết quả nhất định. Siddhārtha, nhìn lại mình, những thành quả đạt, không tìm được con đường tiến cao hơn; các vị thầy ngồi đó vẫn an trú, cảm thọ hỷ lạc pháp hành, trạng thái cảnh giới vô sắc của chư Thiên, xa lìa thế giới mộng tưởng trần gian. Nhìn lên bầu trời bao la, nhìn xuống cảnh vật mênh mông, chúng sanh sống trên sinh mạng lẫn nhau, cảm thấy vui sướng khi gây đau khổ cho nhau. Kiếp sống thật vô nghĩa!

 Động vật ăn đêm, nhẹ bước trên thảm lá khô, sợ làm giao động không gian đang  đặc quánh ngột ngạt.Bầu trời trong xanh u tịch, lắm khi đổ vài cơn mưa trái mùa, không đủ xua tan muỗi mòng. Côn trùng trổi nhạc thê lương nhấn chìm cảnh vật sâu vào tăm tối. Đường mòn xuôi về thôn xóm phủ nhiều lớp lá mục bốc mùi ẩm thấp.Cuối bìa rừng, chân trời lấp lánh vài nụ sao lẻ loi buồn bã, cô đơn.

Chàng Đạo sĩ trẻ đã nhiều năm tự chôn mình cách ly xã hội.Có lẽ khổ hạnh là cách tốt nhất để đổi lấy sự khổ đau của kiếp người; Khổ hạnh là con đường đưa đến an lạc hạnh phúc.Đã bao đời,không chỉ Đạo sĩ Bà La Môn, còn có Kỳ Na giáo, và nhiều hệ phái chọn con đường khổ tu để có được kiếp sống an lạc trong cõi vĩnh hằng sau khi xả bỏ báo thân. Những bậc thầy A-la-la Ca-lam, Ưu-đà-la La-ma tử ...đã giúp chàng Đạo sĩ đạt đến Vô sở hữu xứ định, Phi tưởng phi phi tưởng xứ định. Nhưng, những trạng thái định đó không giải quyết được giải thoát luân hồi; sau khi chìm sâu vào định lực, chàng quán chiếu tận tường mọi cảm thọ. Thầy ta đó, huynh đệ ta đó, năm vị Tỳ kheo khổ tu kia, đều nhập và an trú các bậc Thiền hỷ lạc, như xưa kia, thân phụ làm lễ hạ điền, dưới bóng mát táng cây jambu (diêm-phù-đề), Ta li dục, li pháp bất thiện chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỉ lạc do li dục sinh, có tầm, có tứ." Khi an trú như vậy, Ta nghĩ: "Đạo lộ này có thể đưa đến giác ngộ chăng?" Và này Aggivessana, tiếp theo ý niệm ấy, ý thức này khởi lên nơi Ta: "Đây là đạo lộ đưa đến giác ngộ."

 chàng từng nhập định cảm lạc thọ, một lạc thọ li dục, li pháp bất thiện, phải chăng, đó chỉ là trạng thái khởi đầu cho tiến trình đi sâu vào giải thể mọi cảm thọ, diệt trừ mọi vi tế ngã chấp!

                                                          ***

Mảnh y năm xưa, chàng trao đổi Hoàng bào cho tên thợ săn khi vượt qua dòng sông Anoma, tiến sâu vào rừng khổ hạnh, bao mùa mưa nắng, vài nơi mục nát, vài chỗ sút chỉ, chàng khâu túm lại bằng những sợi dây leo rừng.Móng tay dài cong không co lại được.Sau những năm tháng khổ hạnh, chàng Đạo sĩ nhận ra rằng, khổ tu không phải con đường đưa đến giải thoát, chàng Đạo sĩ kể lại:

Này Aggivessana, rồi Ta tự suy nghĩ như sau: "Ta hãy giảm thiểu tối đa ăn uống, ăn ít từng giọt một, như súp đậu xanh, súp đậu đen hay súp đậu hạt hay súp đậu nhỏ." Và này Aggivessana, trong khi Ta giảm thiểu tối đa sự ăn uống, ăn từng giọt một, như súp đậu xanh, súp đậu đen hay súp đậu hột hay súp đậu nhỏ, thân của Ta trở thành hết sức gầy yếu. Vì Ta ăn quá ít, tay chân Ta trở thành như những cọng cỏ hay những đốt cây leo khô héo; vì Ta ăn quá ít, bàn chân của Ta trở thành như móng chân con lạc đà; vì Ta ăn quá ít, xương sống phô bày của Ta giống như một chuỗi banh; vì Ta ăn quá ít, các xương sườn gầy mòn của Ta giống như rui cột một nhà sàn hư nát; vì Ta ăn quá ít, nên con ngươi long lanh của Ta nằm sâu thẳm trong lỗ con mắt, giống như ánh nước long lanh nằm sâu thẳm trong một giếng nước thâm sâu; vì Ta ăn quá ít, da đầu Ta trở thành nhăn nhiu khô cằn như trái bí trắng và đắng bị cắt trước khi chín, bị cơn gió nóng làm cho nhăn nhíu khô cằn. Này Aggivessana, nếu Ta nghĩ: "Ta hãy rờ da bụng", thì chính xương sống bị Ta nắm lấy. Nếu Ta nghĩ: "Ta hãy rờ xương sống", thì chính da bụng bị Ta nắm lấy. Vì Ta ăn quá ít, nên này Aggivessana, da bụng của Ta đến bám chặt xương sống. Này Aggivessana, nếu Ta nghĩ: "Ta đi đại tiện, hay đi tiểu tiện" thì Ta ngã quỵ, úp mặt xuống đất, vì Ta ăn quá ít. Này Aggivessana, nếu Ta muốn xoa dịu thân Ta, lấy tay xoa bóp chân tay, thì này Aggivessana, trong khi Ta xoa bóp chân tay, các lông tóc hư mục rụng khỏi thân Ta, vì Ta ăn quá ít. Lại nữa, này Aggivessana, có người thấy vậy nói như sau: "Sa-môn Gautama có da đen." Một số người nói như sau: "Sa-môn Gautama, da không đen, Sa-môn Gautama có da màu xám." Một số người nói như sau: "Sa-môn Gautama da không đen, da không xám." Một số người nói như sau: "Sa-môn Gautama da không đen, da không xám, Sa-môn Gautama có da màu vàng sẫm." Cho đến mức độ như vậy, này Aggivessana, da của Ta vốn thanh tịnh, trong sáng bị hư hoại vì Ta ăn quá ít."

                                               ***

Những hành giả khổ hạnh vẫn miên mật hành trì thiện pháp, tiếc nuối nhìn theo dáng đi của chàng Đạo sĩ trẻ dần tiến về cuối dốc. Năm anh em Kiều Trần Như trách móc – chàng đạo sĩ kia đã đi theo tham dục, không kham nỗi khổ hạnh.

Trong thôn xóm an bình lạ thường, lâu lắm, hình như chàng không nhìn thấy nếp sinh hoạt của cư dân; tiếng trẻ con nô đùa, tiếng chó sủa, đàn bò nhởn nha trên đồng cỏ.Xa kia,mặt trời gác tia nắng trên đọt cây, vài sợi khói lượn lờ trên nóc  lá thôn xóm.Một ngày mới bắt đầu.Chàng chậm rãi dừng chân, mở nắp bát, ngườidân trong thôn, kính cẩn dâng lên chiếc bánh chapati khô khốc đầy phấn bột.

Trên bãi cát nóng, che bởi táng cổ thụ Ni-câu-đà, chàng điềm tĩnh, mắt nhắm mật  định; đường dốc xuống sông, hai cô bé Nanda và Bala đang dắt bò, thấy Siddhārtha đang ngồi thiền định, họ sanh lòng kính mến liền vắt lấy sữa bò, nấu chín rồi dâng lên. Bát sữa đầu tiên sau nhiều năm kham khổ, Siddhārtha ăn xong cảm thấy thân thể khoẻ mạnh,tuy chưa bình phục hẳn, nhưng tinh thần phấn chấn lạ thường.

Gió hiu hiu từ sông thổi lên, Siddhārtha tựa lưng vào gốc cây, định thần dưỡng khí; đã nhiều năm, chàng đạo sĩ trẻ chưa từng được nằm, các vị thầy dạy rằng, ngủ ngồi vần tỉnh táo dễ kiểm soát thân tâm hơn ngã lưng.Nắng phả từng luồng khí nóng làm khô cả lá rừng; y bá nạp thấm đẫm mồ hôi, cũng chóng khô dưới sức nóng 50 độ. Cái rét Đông về cũng không làm cho bao hành giả rừng già trú trong hang động chùn bước. Hạ qua, Đông đến luân chuyển suốt kiếp người, có những hành giả như con dã tràng vật vã phấn đấu với nội tâm trước những hạt giống nhiễm ô bất trị.Cũng có những hành giả buông xuôi khi cố vượt qua những trạng thái tâm thức bị lạc dẫn vào thể nghiệm; không thiếu những thất bại não nề của nhiều hành giả tràn ngập chướng duyên như cơn thác lũ cuốn trôi bao công lao hành trì.

                                                         ***

Chàng lần mò xuống sông tắm, kiệt sức lâu ngày, ngất xỉu bất tỉnh, nàng mục nữ Sujàta chăn cừu đi ngang thấy thế, liền mở túi da đựng sữa đề hồ rót vào miệng cứu sống Người. Nửa tỉnh nữa mê,thần thức như lạc vào không trung dịu vợi; tiếng đàn du dương đâu đó văng vẳng bên tai, hồi tỉnh, Ngài biết đó là âm điệu của lão mù đàn dạo kiếm sống độ nhật.

-         Ông, làm sao mà tạo được âm thanh du dương như thế?

-          dây đàn quá căng sẽ đứt, quá dùn sẽ lạc điệu, đó là quy luật trung hòa mới tạo được những gì mình muốn, âm điệu cũng thế, du dương, khoan nhặt do ta biết điều độ – ông lão đáp.

 Từ bỏ kiếp khổ hạnh, đạo sĩ trẻ tươi khỏe với dưỡng chất bình thường, Người đến gốc cây Bồ Đề Thiền định; chị em nàng Sujata dâng cúng bát cháo sữa.Dưới cái nhìn thẩm thấu vạn vật, mọi sự khoác sắc màu tươi tắn; Người thả nhẹ gót sen trên bãi cát vàng, nước sông trong xanh, Siddhārtha ngâm chân vào dòng mát lạnh, cảm giác tươi mát dễ chịu.Một linh cảm thành tựu cho công phu tu tập, Đạo sĩ nâng nhẹ bình bát để trên mặt nước nguyện -: "Nếu ta được chứng quả thành Phật, thì nguyện cho cái bát nầy nổi trên mặt nước và trôi ngược lại dòng sông". Đúng như lời nguyện, chiếc bát trôi ngược về vùng nước xoáy cách đó không xa, nơi mà tương truyền trong Hiền kiếp, ba chiếc bát vàng của Phật Câu Lưu Tôn, Phật Câu Na Hàm Mâu Ni và Phật Ca Diếp đắc đạo trước kia cũng tại nơi này.

Trở  lên bờ,về cội Bồ Đề ở Bodh Gaya, bèn xếp tréo chân, thẳng lưng trong tinh thần tỉnh táo sáng suốt. Em bé Sotthiya Svastika dâng cúng Người bó cỏ làm tọa cụ. Sau khi an trú thân tâm,mặt nhìn về hướng Đông, phía bờ sông Ni liên Thuyền, phát nguyện: "Dù cho da, thịt, xương, gân của ta có tan hoại và máu ta có khô cằn. Nếu không đạt quả vị Chánh Giác, ta sẽ không rời chỗ này"

                                                       ***

Đêm Đông, không như những cái lạnh thấu xương mọi năm, không gian tĩnh mịch, trong xanh màu ngọc bích,trùng dế vắng lặng, vạn vật trôi vào cõi xa xăm như ngàn tinh tú thăm thẳm cô đơn, như sự cô đơn của một hành giả từ bỏ mọi cám dỗ trần thế để chọn kiếp không nhà, không nơi an trú, lẻ loi, cô độc, hướng đến cảnh giới sâu thẳm nội thức.Mênh mông đất trời, vị Đạo sĩ trẻ vẫn miên man nhập định. Vẳng từ xa, tiếng gà lẻ loi rơi vào cô tịch. Bầu trời le lói mờ nhạt một vài sao khuya.

Từ vô thức xuất hiện ảo ảnh thịnh nộ, đe dọa hành giả, như những mũi tên bắn vào kính chắn, tự  rơi rụng từ xa, Đạo sĩ vẫn an nhiên bất động; Da du đà La, La Hầu La, xuất hiện réo gọi Thái tử trở về cuộc sống chăn êm nệm ấm, vị đạo sĩ trẻ vẫn bất định giữa đất trời giá lạnh; cung phi mỹ nữ ẻo lả nhún nhảy mời gọi, chàng vẫn bình thản nhìn những chiếc bóng vô hồn dần tan biến giữa màn đêm. Siddhārtha tiếp-tục nhập Diệt-Thọ-Tưởng định. Canh một vừa điểm, tuệ giác xuất hiện, Túc mạng minh, vô lượng kiếp quá khứ của Ngài biết rõ như lòng bàn tay.Vẫn điềm nhiên an trú đến canh hai, Thiên Nhãn Minh cũng xuất hiện, Ngài thấy rõ tương quan nhân quả của mọi chúng sanh. "Tại sao con người cứ phải sanh ra để chịu cảnh sanh, già, bệnh, chết". Câu trả lời: "Nguyên do chính là Lậu hoặc".Canh ba Ngài đạt được Lậu Tận Minh, một minh triết nhìn thấy nguyên nhân mọi sự trong tam giới.

                                                       ***

4 tuần thiền định dưới cội Pipphala (Bồ Đề), đạt được Tam minh, giải đáp được bài toán giải thoát luân hồi, Đức Phật nói: "Ta biết như thật 'Đây là khổ '. 'Đây là nguyên nhân của khổ '. 'Đây là sự diệt khổ '. 'Đây là con đường đưa đến diệt khổ )' ".

Vào tuần lễ thứ 7, Ngài chứng ngộ: Chân Như tánh, Bất Ly Như tánh, Bất Dị Như tánh, Y Duyên tánh , tức Lý Duyên Khởi, Không tánh, Huyễn tánh và Bình đẳng tánh của thế giới hiện tượng. Qua tiến trình thực nghiệm tâm linh, Ngài đã chứng quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác,  trở thành một vị Phật Shakyamuni (Thích-ca Mâu-ni) — "Trí giả của dòng dõi Thích-ca".

Trăng thượng tuần như vành móng tay tiếp sáng cho ngôi sao Mai lạc dần hướng Đông, gió từ dòng sông Ni Liên Thuyền vuốt ve cội Bồ Đề,lá tung bay như chư Thiên rải hoa chúc tụng đấng đại giác. Ánh rạng Đông làm mờ nhạt sao Mai, Trí tuệ giác ngộ làm nhạt nhòa vô minh vô lượng kiếp; thân  màu hoàng kim của Shakyamuni  thắp sáng cả tam giới như giáo lý thắp sáng con đường giải thoát.

 

MINH MẪN                                                                                                             12/11/2020

 kỷ niêm mùa Thành Đạo

    

 




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/03/2022(Xem: 2610)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu. Hôm nay tôi sẽ viết về các loại Tình: tình bạn, tình người, tình yêu, thình thương, tình cảm v.v… Nếu viết bằng chữ Hán về chữ Tình nầy thì bên trái viết bộ tâm đứng, có nghĩa là những tình nầy đều khởi đi từ tâm của mỗi con người; bên phải viết chữ thanh là màu xanh hay cũng còn có ý là rõ ràng, trong sáng v.v…, hai chữ nầy ghép lại gọi là chữ Tình. Sau nầy tiếng Việt chúng ta dùng chữ tình yêu, tình cảm, tình thương, tình ý v.v…cũng đều sử dụng chữ tình nầy để ghép chung vào chữ Nôm của chúng ta, trở thành tiếng Việt thuần túy.
04/03/2022(Xem: 2327)
Xin khép lại những phiền muộn của năm cũ với nhiều nỗi đau thương mất mát và ly biệt, niềm thương cảm cho người thân, thầy bạn mãi mãi rời xa chúng ta. Trong bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào, ta vẫn nghĩ, dù sao đó là những chuyện đã qua, năm mới với nhiều hy vọng mới, tư duy mới và một cuộc hành trình mới đang chờ chúng ta phía trước. Xin bạn hãy khép lại những lo âu phiền muộn, lau khô những giọt nước mắt cho những mối tình hay những cuộc hôn nhân đổ vỡ, rồi cũng sẽ có người phù hợp với bạn, sẻ chia vui buồn trong cuộc sống của bạn. Sự chân thành sẽ tồn tại quanh bạn, những giọt nước mắt sẽ giúp bạn hiểu được cuộc đời này, rồi niềm vui sẽ đến, những trở ngại giúp bạn biết nâng niu cuộc sống.
02/03/2022(Xem: 5988)
CHÁNH PHÁP Số 124, tháng 3.2022 Hình bìa của Kranich17 (Pixabay.com) NỘI DUNG SỐ NÀY: THƯ TÒA SOẠN, trang 2 TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 XUÂN VỀ (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 6
01/03/2022(Xem: 3874)
Những ngày gần đây, dường như chánh niệm đang lan tỏa khắp mọi nơi. Khi tìm kiếm trên Google mà tôi đã thực hiện vào tháng 1 năm 2022 cho cụm từ "Chánh niệm" (Mindfulness) đã thu được gần 3 tỷ lượt truy cập. Phương pháp tu tập thiền chánh niệm này hiện được áp dụng thường xuyên tại các nơi làm việc, trường học, văn phòng nhà tâm lý học và các bệnh viện trên khắp cả nước Mỹ.
01/03/2022(Xem: 3862)
Hàng trăm đồ tạo tác vật phẩm văn hóa Phật giáo đã bị đánh cắp hoặc phá hủy sau cuộc quân sự Taliban tấn công và tiếp quản Chính quyền Afghanistan ngày 15 tháng 08 năm 2021. Hôm thứ Ba, ngày 22 tháng 02 vừa qua, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cho biết, Hợp chúng quốc đã hạn chế các vật phẩm văn hóa Phật giáo và lịch sử từ Cộng hòa Hồi giáo Afghanistan, với hy vọng ngăn chặn "những kẻ khủng bố" kiếm lợi, nhưng các chuyên gia bày tỏ lo ngại về những hậu quả không mong muốn.
24/02/2022(Xem: 2531)
Nhà kiến tạo hòa bình, nhà tâm lý học, nhà cải cách xã hội học, nhà giáo dục và Phật giáo Dấn thân nổi tiếng, người Mỹ và được trên thế giới kính trọng, Tiến sĩ Phật tử Paula Green sinh vào ngày 16 tháng 12 năm 1937 tại Hoa Kỳ, đã thanh thản trút hơi thở từ giã trần gian vào ngày 21 tháng 2 năm 2022, hưởng thọ 84 tuổi.
24/02/2022(Xem: 2519)
Tôi học mãi Phẩm 6 về “ Người Hiền Trí “trong kinh Pháp Cú và bài thứ tư trong kinh Trung Bộ “ Sợ Hãi và Khiếp Đảm “ mà vẫn không chán vì càng học càng thấy nhiều lợi ích để tu tập và sửa đổi những tật xấu và lỗi lầm của mình trên đường tu học nhất là khi mình được một đại phước duyên gần gũi một bậc hiền trí . Thú thật ….trong những năm tự nhốt mình trong tháp ngà tôi đã nghiên cứu Thiền, Tịnh, Mật, rất cẩn thận từ ghi chép, nghe nhiều pháp thoại, so sánh kinh sách nhiều tông phái …thế nhưng chưa bao giờ như lúc này tôi cảm nghiệm lời dạy Đức Phật lại thâm huyền và siêu việt hơn bao giờ hết khi phối hợp hai phẩm này trong hai bộ kinh căn bản nhất cho những ai bước trên đường Đạo . Trộm nghĩ dù với tuổi nào khi chưa hoàn tất hay gặt hái được mục đích thành tựu của Trí Tuệ ( DUY TUỆ THỊ NGHIÊP) thì chúng ta hãy cứ bước đi mà chẳng nên dừng lại .
24/02/2022(Xem: 5880)
Tác giả tác phẩm này là Tỳ Kheo Sujato, thường được ghi tên là Bhikkhu Sujato, một nhà sư Úc châu uyên bác, đã dịch bốn Tạng Nikaya từ tiếng Pali sang tiếng Anh. Bhikkhu Sujato cũng là Trưởng Ban Biên Tập mạng SuttaCentral.net, nơi lưu trữ Tạng Pali và Tạng A Hàm trong nhiều ngôn ngữ -- các ngôn ngữ Pali, Sanskrit, Tạng ngữ, Hán ngữ, Việt ngữ và vài chục ngôn ngữ khác – trong đó có bản Nikaya Việt ngữ do Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch từ Tạng Pali, và bản A-Hàm Việt ngữ do hai Hòa Thượng Tuệ Sỹ và Thích Đức Thắng dịch từ Hán Tạng.
22/02/2022(Xem: 3437)
Trong lịch sử, các đại dịch đã buộc nhân loại phải đoạn tuyệt với quá khứ và hy vọng ở tương lai thế giới mới của họ. Điều này không có gì khác lạ. Nó là một cổng thông tin, một cửa ngõ, giữa thế giới đương đại và thế giới tương lai. Nhà văn, nhà tiểu luận, nhà hoạt động người Ấn Độ Arundhati Roy, Đại dịch là một cổng thông tin
21/02/2022(Xem: 2356)
Bốn Sự Thật Cao Quý được các kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ Diệu Đế, là căn bản của toàn bộ Giáo Huấn của Đức Phật và cũng là một đề tài thuyết giảng quen thuộc. Do đó đôi khi chúng ta cũng có cảm tưởng là mình hiểu rõ khái niệm này, thế nhưng thật ra thì ý nghĩa của Bốn Sự Thật Cao Quý rất sâu sắc và thuộc nhiều cấp bậc hiểu biết khác nhau. Bài chuyển ngữ dưới đây đặc biệt nhấn mạnh đến nguồn gốc vô minh tạo ra mọi thứ khổ đau cho con người, đã được nhà sư Tây Tạng Guéshé Lobsang Yésheé thuyết giảng tại chùa Thar Deu Ling, một ngôi chùa tọa lạc tại một vùng ngoại ô thành phố Paris, vào ngày 16 và 30 tháng 9 năm 2004. Bài giảng được chùa Thar Deu Ling in thành một quyển sách nhỏ, ấn bản thứ nhất vào năm 2006.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567