Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Truyện thơ: Vua Rắn Núi Phổ Đà

06/11/202022:35(Xem: 12141)
Truyện thơ: Vua Rắn Núi Phổ Đà

7. Quan Âm Phổ Đà Sơn
VUA RẮN 
NÚI PHỔ ĐÀ

 

Thuở xưa đức Quán Thế Âm

Chọn nơi đây chốn sơn lâm tuyệt vời

Mở mang Phật pháp giúp đời

Đạo tràng xây dựng cho người tu tâm,

Núi tên là Phổ Đà Sơn

Có vua rắn nọ vẫn thường ở đây

Họ hàng nhà rắn đông thay

Và riêng vua rắn lâu nay tu hành

Nghìn năm tu luyện tinh anh

Phép thần thông giỏi nổi danh xa gần.

Rắn thua đức Quán Thế Âm

Sau khi đấu phép thần thông tranh tài

Mới đành chịu nhượng bộ ngài

Cho ngài mượn núi làm nơi đạo tràng,

Rắn lo ngại cho họ hàng

Bị người giết hại nguy nan vô cùng.

Đức Quán Âm: "Hãy an lòng

Họ hàng nhà rắn hiện trong núi này

Cứ yên cư ngụ nơi đây

Người và rắn sống chung đầy tình thương

Ai làm hại phải bồi thường

Mạng đem thường mạng khó đường tránh qua,

Quyền vua rắn xử chẳng tha

Sẽ niêm yết bảng gần xa khắp vùng

Và loan báo rõ lệnh chung

Để người gìn giữ tránh đường sát sinh!"

Thế là trên ngọn núi xanh

Đạo tràng nghiêm túc lập thành nơi đây

Đã qua bao tháng cùng ngày

Hành hương khách ghé núi này thật đông

Người và rắn sống yên lòng

Người không hại rắn, rắn không cắn người.

Nhiều chùa xây cất khắp nơi

Tăng, ni, Phật tử vang lời cầu kinh.

*

Vùng này có chú Tiểu Đinh

Thường hay chơi nghịch phá quanh xóm làng

Tổ chim tìm đập tan hoang

Chuồn chuồn, châu chấu, bướm vàng chẳng tha.

Hôm nay chú trốn mẹ cha

Lén leo lên núi nhởn nha một mình

Dạo quanh tìm dịp sát sinh

Đến khi đói bụng ghé nhanh vào chùa

Xin ăn uống lúc ban trưa

No nê lại chạy rỡn đùa khắp nơi

Khi gần lúc xế chiều rồi

Đến con đường nọ chú ngồi nhìn quanh

Chợt đâu thấy dưới cỏ xanh

Có con rắn nhỏ bò nhanh tìm đường

Trốn bò cạp lớn kinh hoàng

Đang nhanh chân rượt phía đằng sau đuôi

May thay tới lạch suối rồi

Rắn lao mình xuống vội bơi qua bờ,

Nước ngăn bò cạp bất ngờ

Nó đâu biết lội đứng đờ người ra

Đành quay lui, khó vượt qua,

Tiểu Đinh tinh nghịch nghĩ ra mưu liền

Lượm cành cây rớt kề bên

Bắc cầu qua lạch ngang trên đôi bờ

Chú bò cạp chẳng chần chờ

Bò qua rượt đuổi rắn như điên cuồng

Tấm thân rắn nhỏ thảm thương

Trốn không thoát kịp trăm đường đớn đau

Bị bò cạp cắn hồi lâu

Quằn người ra chết, còn đâu nẻo về,

Tiểu Đinh vui thích thoả thuê

Reo lên khoái chí vừa đi vừa cười.

Núi rừng khuất bóng mặt trời

Tiểu Đinh vội vã tìm nơi ngủ nhờ

Ghé vào chùa. Thật bất ngờ

Vừa trông thấy mặt là sư giật mình

Lắc đầu hỏi, giọng thất kinh:

"Trông con nét mặt quả tình nguy thay

Bao nhiêu ám khí phủ đầy

Chắc con khó sống qua ngày mai đâu,

Nói cho thầy biết thật mau

Gần đây con có phạm vào tội chi

Sinh linh có giết hại gì

Khiến cho phúc đức mất đi thảm sầu?"

Tiểu Đinh hốt hoảng lắc đầu

Sau khi ngẫm nghĩ hồi lâu, thưa thầy

Rằng mình tinh nghịch mới đây

Giúp bò cạp giết rắn ngay trên đồi.

Sư vừa nghe nói dứt lời

Tức thời hốt hoảng kêu trời, khẽ than:

"Thật khó khăn! Thật nguy nan!

Thế nào vua rắn cũng làm hại ngay

Đòi con thường mạng, thảm thay

Khó mà trốn thoát nạn này được đâu!"

Tiểu Đinh sợ hãi van cầu

Xin sư chỉ cách nhiệm mầu cứu nguy.

Cúi đầu sư vội nghĩ suy

Hồi lâu lên tiếng từ bi giúp người:

"Chỉ còn cách tụng kinh thôi

May ra công đức do nơi lòng thành

Tạo ra một chút duyên lành

Cứu con thoát khỏi tội tình nghiệp oan!"

Sư bèn thả quả chuông vàng

Nới dây, hạ thấp xuống ngang hiên ngoài

Lệnh cho chú nhỏ vào ngồi

Khuyên luôn niệm Phật đồng thời cầu kinh,

Chuông vàng sư hạ xuống nhanh

Che cho chú nhỏ giấu mình bên trong,

Bên ngoài sư dốc một lòng

Mở kinh ngồi tụng vô cùng nghiêm trang

Khơi đèn, thắp nến, đốt nhang

Lạ thay khi mở kinh vàng ra xem

Không nhìn thấy chữ! Ngạc nhiên!

Trang kinh trắng xoá báo điềm tai ương

Mõ thời im tiếng chẳng vang

Dùi càng gõ mạnh mõ càng lặng câm

Sư lòng hoảng hốt vô ngần

Miệng luôn niệm Phật dốc tâm khẩn cầu.

Bỗng nhiên vua rắn từ đâu

Hiện ra giận giữ, cái đầu lắc lư

Đến ngay bên cạnh chỗ sư

Quấn chung quanh quả chuông xưa ba vòng

Vang lên tiếng rít hãi hùng

Và rồi sau đó lạnh lùng buông ra

Biến vào bóng tối nhạt nhoà

Ngoài song chánh điện trăng tà khuất mây.

Sư liền vội chạy đến ngay

Kéo chuông lên ngó trong đây thế nào

Thật là kinh khủng biết bao

Tiểu Đinh đã biến chốn nao mất rồi

Chỉ còn một vũng máu thôi

Dính quanh mớ tóc của người trẻ thơ.

Nhắm nghiền cặp mắt hiền từ

Sư lên tiếng niệm Phật A Di Đà

Một mình lẩm bẩm xót xa:

"Chót gây nghiệp dữ khó mà thoát đây

Nhân nào quả nấy xưa nay

Dễ gieo nhân ác, khó gây quả lành!"

Với tâm từ, với lòng thành

Ba ngày liên tiếp sư dành tụng kinh

Cầu cho chú nhỏ Tiểu Đinh

Linh hồn sớm được siêu sinh trọn bề.

 

Tâm Minh Ngô Tằng Giao

(thi hóa phỏng theo TRUYỆN CỔ PHẬT GIÁO)

 

 


***


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/02/2021(Xem: 6033)
Hôm qua mình có giới thiệu cuốn sách Buddhism in America (Phật Giáo Mỹ) của Richard Hughes Seager. Có bạn hỏi thêm muốn tìm hiểu Phật Giáo Mỹ nên nhờ mình giới thiệu vài cuốn. Nghĩ rằng đây là câu hỏi hay nên mình xin viết giới thiệu 7 cuốn sách để nhiều người lợi lạc. 1. Cuốn The Faces of Buddhism in America (Diện Mạo của Phật Giáo ở Mỹ) do Charles Prebish 2. Buddhist Faith in America (Đức Tin Phật Giáo ở Mỹ) tác giả Michael Burgan 3. Buddhism in America của Richard Huges Seager (1999, tái bản 2012) 4. Buddhism in America của Scott Mitchell 5. Altered Traits: Science Reveals How Meditation Changes Your Mind, Brain, and Body, 2017 6. A Mindful Nation: How a Simple Practice Can Help Us Reduce Stress, Improve Performance, and Recapture the American Spirit, 2012, 7: American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
01/02/2021(Xem: 4381)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 9323)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 5847)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
01/02/2021(Xem: 7163)
Phần này bàn về các danh từ gọi dụng cụ gắp cơm và đưa vào miệng (ăn cơm) như đũa hay trợ, khoái, giáp cùng các dạng âm cổ của chúng. Các chữ viết tắt khác là Nguyễn Cung Thông (NCT), Hán Việt (HV), Việt Nam (VN), TQ (Trung Quốc), ĐNA (Đông Nam Á), HT (hài thanh), TVGT (Thuyết Văn Giải Tự/khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), TV (Tập Vận/1037/1067), TNAV (Trung Nguyên Âm Vận/1324), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), TViB (Tự Vị Bổ/1666), TTTH (Tứ Thanh Thiên Hải), KH (Khang Hi/1716), VBL (tự điển Việt Bồ La/1651) ĐNQATV (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị/1895).
29/01/2021(Xem: 5833)
Ở đời không phải ai cũng chấp nhận sự chân thành của bạn. Những người quanh ta luôn công nhận việc tốt mà ta đã và đang làm, trở thành đương nhiên như thế… và đến một ngày kia bạn quá mệt mỏi liệu có ai bên cạnh bạn và cảm thông với bạn không? Vì trong suy nghĩ của họ bạn là người tự nguyện cho đi..., trong hoàn cảnh như thế liệu bạn có tiếp tục cho đi nữa hay không? Tất nhiên là có, chúng ta hãy tiếp tục sống tốt nhưng phải là người tốt thông minh. Hãy tin rằng không có nỗ lực nào là uổng phí, hãy có quan điểm và lý tưởng của chính mình, luật nhân quả luôn đền bù cho bạn xứng đáng. Nhà Phật dạy có Luân Hồi-Ngiệp Báo. Không ai phủ nhận rằng quan tâm chăm sóc người khác là tốt, nhường nhịn người khác đều là tốt, tuy nhiên quan tâm quá, họ sẽ làm khó ta vạn lần, nhiệt tình quá họ sẽ đâm ra nghi ngờ, thậm chí khiến bạn bị tổn thương …
28/01/2021(Xem: 6425)
Chúng ta đã quen với thể loại thơ Thiền sáng tác nhiều thế kỷ trước từ các ngài Trần Nhân Tông, Tuệ Trung Thượng Sỹ, Hương Hải… Hay gần đây như với thơ của các ngài Nhất Hạnh, Mãn Giác, Tuệ Sỹ, Minh Đức Triều Tâm Ảnh, Ni Trưởng Trí Hải… Đó là nói cho chặt chẽ. Nếu nói cho nới rộng hơn, thơ Thiền cũng là Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Trịnh Công Sơn… Mỗi thời đại đều có những nét riêng, mỗi tác giả cũng là một thế giới độc đáo. Mặt khác, thơ Thiền mỗi quốc độ cũng khác. Trong khi phần lớn thơ Thiền Nhật Bản cô đọng với thể haiku, thơ Thiền Trung Hoa có nhiều bài hùng mạnh như tiếng sư tử hống, như với Chứng Đạo Ca của ngài Huyền Giác, hay Tín Tâm Minh của ngài Tăng Xán. Không ngộ được tự tâm, sẽ không có văn phong đầy sức mạnh như thế. Nơi đây, chúng ta nêu câu hỏi: Làn gió Thiền Tông đã ảnh hưởng vào thơ Hoa Kỳ ra sao? Và sẽ giới thiệu về bốn nhà thơ.
28/01/2021(Xem: 6447)
Mọi người đều biết câu chuyện Xá Lợi Phất thăm Cấp Cô Độc khi bị bịnh nặng và giảng cho Cấp Cô Độc bài pháp về quán chiếu, khi thiền trong Tứ Niệm Xứ mà chữa bịnh cho Cấp Cô Độc. Quán về Phật pháp tăng, 18 giới gồm 6 căn 6 trần 6 thức, rồi quán về 7 đại: đất nước gió lửa không kiến thức, quán về thời gian không gian và cuối cùng là quán về 5 uẩn. Cấp Cô Độc nghe xong hết bịnh. Cũng câu chuyện như vậy, nhưng nó khác đi chi tiết là lúc về già sắp mất: Xá Lợi Phất khai thị Cấp Cô Độc chú trọng về 5 uẩn, hãy trả 5 uẩn về lại cho 5 uẩn khi duyên hội tụ đã hết. Hãy trả Pháp về lại cho Pháp. Và Cấp Cô Độc chết thành A la hán vì đã ngộ được đạo về cõi trời.
28/01/2021(Xem: 5599)
Chùa Thiếu Lâm Tự mở ra khóa ngồi thiền cho 18 vị tu thành A la Hán. Khoá tu này trong 30 ngày ngồi trong tịnh thất suốt ngày đêm. Vị chủ trì là Hòa thượng trụ trì của Thiếu Lâm Tự. Thời bấy giờ là mùa xuân, cảnh đẹp hoa nở và thời tiết ấm áp. Mọi thiền sinh miệt mài tập trung thiền định đạt được 30 ngày miên mật thì bỗng xảy ra tiếng nói vọng vào từ ngoài cửa. Giọng nói đầy êm dịu thanh thoát và trong trẻo của một cô gái. Mỗi tiếng phát âm đi sâu vào tim người nghe một cảm giác êm dịu nhẹ nhàng như vuốt ve trái tim của con người.
27/01/2021(Xem: 3935)
Kính thưa quý đọc giả, tôi đột nhiên thấy được quyển sách với nhan đề “Khéo Dùng Cái Tâm” do Hội Phật Học Bát Nhã biên soạn, liền mượn về ngay để nghiên cứu. Tôi sở dĩ nghiên cứu tác phẩm này là do chủ đề “Khéo Dùng Cái Tâm” lôi cuốn tư tưởng của tôi. Chủ đề rất hấp dẫn khiến tôi tò mò không biết nội dung trong đó nói gì đành phải bỏ hết thời gian để đọc cho xong. Toàn bộ quyển sách chỉ nói về Ma Nhập, nhưng quý đọc giả cần phải đọc qua để biết Ma Nhập quan hệ như thế nào đối với con người chúng ta, đồng thời cần phải tỏ tường để tránh né và đối trị.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]