Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bộ Tem “Tượng Chùa Tây Phương”

01/11/202016:24(Xem: 5885)
Bộ Tem “Tượng Chùa Tây Phương”

BỘ TEM TƯỢNG CHÙA TÂY PHƯƠNG

        

           Chùa Tây Phương (Sùng Phúc Tự) ở huyện Thạch Thất thuộc Hà Tây cũ, nay là Hà Nội, chốn già lam thánh chúng còn lưu giữ đến 60 bức tượng cổ, đã trở thành bảo vật của chùa, và cũng là bảo vật quốc gia. Những pho tượng cổ này đều được tạc bằng gỗ mít sơn son thếp vàng, có tượng được tạc to hơn hình thể dáng vóc của người thường, và tất cả đều toát vẻ uy nghi thanh thoát...

           Xưa nay, ngoài những pho tượng Phật và Bồ Tát đã biết rõ danh hiệu, thiên hạ vẫn thường quen gọi chung những tượng cổ còn lại trong chùa là “chư vị La Hán”. Bộ tượng “Thập Bát La Hán” được tôn trí trong chánh điện chùa thật ra là tôn tượng 18 vị Tổ sư Thiền tông Tây Thiên nối tiếp nhau chủ trì, gìn giữ Phật pháp ở Ấn Độ sau Phật Thích Ca.

         Bưu Chính Việt Nam đã có phát hành bộ tem về 18 pho tượng này, không bằng hình ảnh chụp mà giao cho các họa sĩ Nguyễn Hiệp & Lê Toàn chuyên vẽ tem thể hiện lại thật sắc nét và sinh động trên nền nhũ bạc rất đẹp.

           Bộ 18 tượng được lên tem này, kể từ vị Tổ thứ nhất Ca Diếp (Kacyapa) đến vị Tổ thứ 18 là Tăng Già Da Xá (Sainghayacas).

1 -Tổ Ma Ha Ca Diếp.
2 - Tổ A Nan,

3 - Tổ Thương Na Hòa Tu,
4 - Tổ Ưu Ba Cúc Đa,
5 - Tổ Đề Đa Ca,
6 - Tổ Di Giá Ca,
7 - Tổ Bà Tu Mật,
8 - Tổ Phật Đà Nan Đề,
9 - Tổ Phục Đà Mật Đa,
10 - Tổ Hiếp Tôn Giả,
11 - Tổ  Phú Na Giạ Xa,
12 - Tổ Mã Minh,
13 - Tổ Ca Tỳ Ma La,
14 - Tổ Long Thọ,
15 - Ca Na Đề Bà,
16 - Tổ La Hầu La Đa,
17 - Tổ Tăng Già Nan Đề,
18 - Tổ Già Đa Xá Đa,

19 - Tổ Cưu Ma La Đa,
20 - Tổ Xà Dạ Đa,

21 - Tổ Bà Tu Bàn Đầu,
22 - Tổ Ma Noa La,

23 - Tổ Hạc Lặc Noa,
24 - Tổ Sư Tử,

25 - Tổ Bà Xá Tư Đa,
26 - Tổ Bát Như Mật Đa,

27 - Tổ Bát Nhã Đa La,
28 - Tổ Bồ Đề Đạt Ma.

         Như vậy, ta thấy còn đến 10 vị Tổ Thiền tông Tây Thiên, và 5 vị Tổ Thiền Tông Đông Độ (Huệ Khả, Tăng Xáng, Đạo Tín, Hoằng Nhẫn & Huệ Năng) nếu được xuất hiện trên tem mới đầy đủ 33 vị Tổ Sư Thiền.

         Bộ tem “Tượng Chùa Tây Phương” được in ấn và phát hành thành 2 đợt cách nhau đến 7 năm:

-         Bộ 8 tem phát hành ngày 30/07/1971

-         Bộ 10 tem phát hành ngày 01/07/1978

       Có một điều tôi thấy cần phải đính chính, là mẫu tem 1đ trong bộ 8 tem phát hành năm 1971, ghi là Shakyamuni, không phải là vị Tổ nào trong 33 vị Tổ thiền tông, mà chính là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong thời kỳ Ngài còn tu khổ hạnh ở núi Hy Mã Lạp Sơn lạnh giá suốt 6 năm trời, thân thể gầy gò xương xẩu,  nên còn được gọi là “Tuyết Sơn”, vì khi đó Ngài chưa thành Phật.

      Trong album sưu tập Tem đề tài “Phật Giáo” của cá nhân tôi, còn lưu giữ được đủ bộ 18 mẫu tem này, có cả tem chết lẫn sống.

     Xin trân trọng giới thiệu đến chư vị đạo hữu, bằng hữu luôn quan tâm đến mảng tôn tượng Phật, Bồ Tát & Thánh Chúng.

Tâm Không Vĩnh Hữu

 Bộ Tem “Tượng Chùa Tây Phương”-01Bộ Tem “Tượng Chùa Tây Phương”-02Bộ Tem “Tượng Chùa Tây Phương”-03Bộ Tem “Tượng Chùa Tây Phương”-04Bộ Tem “Tượng Chùa Tây Phương”-05Bộ Tem “Tượng Chùa Tây Phương”-06Bộ Tem “Tượng Chùa Tây Phương”-07Bộ Tem “Tượng Chùa Tây Phương”-08Bộ Tem “Tượng Chùa Tây Phương”-09Bộ Tem “Tượng Chùa Tây Phương”-10Bộ Tem “Tượng Chùa Tây Phương”-11Bộ Tem “Tượng Chùa Tây Phương”-12Bộ Tem “Tượng Chùa Tây Phương”-13Bộ Tem “Tượng Chùa Tây Phương”-14Bộ Tem “Tượng Chùa Tây Phương”-15Bộ Tem “Tượng Chùa Tây Phương”-16Bộ Tem “Tượng Chùa Tây Phương”-17Bộ Tem “Tượng Chùa Tây Phương”-18Bộ Tem “Tượng Chùa Tây Phương”-19Bộ Tem “Tượng Chùa Tây Phương”-20

 




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/02/2021(Xem: 4381)
Sau khi đạt được Giác ngộ, Đức Phật nêu lên Bốn Sự Thật và sự thật thứ nhất là "Khổ đau". Khổ đau ẩn chứa trong thân xác, bàng bạc trong tâm thức của mỗi cá thể con người và bùng ra cùng khắp trong thế giới: bịnh tật, hận thù, ích kỷ, lường gạt, đại dịch, bom đạn, chiến tranh... Sự thật đó, khổ đau mang tính cách hiện sinh đó, thuộc bản chất của sự sống, gắn liền với sự vận hành của thế giới. Sự thật về khổ đau không phải là một "phán lệnh" hay một cái "đế", cũng không mang tính cách "kỳ diệu" gì cả, mà chỉ là một sự thật trần trụi, phản ảnh một khía cạnh vận hành của hiện thực.
07/02/2021(Xem: 5250)
Nhà thiền có danh từ Tọa Xuân Phong để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp. Danh từ đó, tạm dịch là “Ngồi Giữa Gió Xuân” Mùa Xuân chẳng phải là mùa tiêu biểu cho những gì hạnh phúc nhất trong bốn mùa ư? Hạ vàng nắng cháy, vui chơi hối hả như đàn ve sầu ca hát suốt mùa để cuối mùa kiệt lực! Thu êm ả hơn, nhưng nhìn mây xám giăng ngang, lá vàng lả tả, tâm- động nào mà không bùi ngùi tưởng tới kiếp nhân sinh?
07/02/2021(Xem: 5479)
Chú mục đồng chậm rãi bước xuống sông. Bên cạnh chú, con trâu lớn nhất đàn ngoan ngoãn xuống theo. Đôi mắt hiền lành của nó nhìn chú như mỉm cười, tin tưởng và thuần phục. Những con trâu bé hơn lại nhìn bước đi vững chãi, an lạc của con trâu đầu đàn mà nối nhau, cùng thong thả qua sông. Đây là khúc sông cạn mà chú đã dọ dẫm kỹ lắm. Đáy sông lại không có những đá nhọn lởm chởm có thể làm chân trâu bị thương. Bên kia sông, qua khu rừng có những cội bồ đề râm mát là tới đồng cỏ rộng. Mùa này, sau những cơn mưa, cỏ non vươn lên xanh mướt, đàn trâu gồm bẩy con mà chú có bổn phận chăm sóc tha hồ ăn uống no nê sau những giờ cực nhọc cầy bừa ngoài đồng lúa.
07/02/2021(Xem: 8581)
Khi những cơn bảo và áp thấp nhiệt đới hung hãn nhất vừa tạm qua đi, khí trời phương Nam cũng trở buồn se lạnh. Nhiều người cho đó là hoàn lưu của những cơn bão miền Trung mà tất cả con dân “bầu bí chung dàn” vẫn còn đang hướng về chia sẻ, nhưng ít người nhận ra rằng đó chính là cái se lạnh của mùa đông phương Nam, báo hiệu mùa xuân sắp đến nơi ngưỡng cửa của bộn bề lo toan hằng năm.
06/02/2021(Xem: 6426)
Mười bức “Tranh Chăn Trâu” trong phần này là của họa sư Nhật Bản Gyokusei Jikihara Sensei, vẽ vào năm 1982 nhân một cuộc thăm viếng thiền viện Zen Mountain Monastery ở Mount Tremper, New York, (Hoa Kỳ). Họa sư vẽ để tặng thiền viện. Các bài thơ tụng thời nguyên gốc của thiền sư Quách Am viết vào thế kỷ thứ 12. Thơ tụng được chuyển dịch ở đây bởi Kazuaki Tanahashi và John Daido Loori, sau đó được nhuận sắc bởi Daido Loori để mong tạo lập ra những hình ảnh và ẩn dụ cho thêm giống với phong cảnh núi sông ở quanh thiền viện Zen Mountain Monastery. Thiền sư Daido Loori là người lãnh đạo tinh thần và là tu viện trưởng của thiền viện này.
04/02/2021(Xem: 6175)
Hôm qua mình có giới thiệu cuốn sách Buddhism in America (Phật Giáo Mỹ) của Richard Hughes Seager. Có bạn hỏi thêm muốn tìm hiểu Phật Giáo Mỹ nên nhờ mình giới thiệu vài cuốn. Nghĩ rằng đây là câu hỏi hay nên mình xin viết giới thiệu 7 cuốn sách để nhiều người lợi lạc. 1. Cuốn The Faces of Buddhism in America (Diện Mạo của Phật Giáo ở Mỹ) do Charles Prebish 2. Buddhist Faith in America (Đức Tin Phật Giáo ở Mỹ) tác giả Michael Burgan 3. Buddhism in America của Richard Huges Seager (1999, tái bản 2012) 4. Buddhism in America của Scott Mitchell 5. Altered Traits: Science Reveals How Meditation Changes Your Mind, Brain, and Body, 2017 6. A Mindful Nation: How a Simple Practice Can Help Us Reduce Stress, Improve Performance, and Recapture the American Spirit, 2012, 7: American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
01/02/2021(Xem: 4505)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 9480)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 5956)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
01/02/2021(Xem: 7366)
Phần này bàn về các danh từ gọi dụng cụ gắp cơm và đưa vào miệng (ăn cơm) như đũa hay trợ, khoái, giáp cùng các dạng âm cổ của chúng. Các chữ viết tắt khác là Nguyễn Cung Thông (NCT), Hán Việt (HV), Việt Nam (VN), TQ (Trung Quốc), ĐNA (Đông Nam Á), HT (hài thanh), TVGT (Thuyết Văn Giải Tự/khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), TV (Tập Vận/1037/1067), TNAV (Trung Nguyên Âm Vận/1324), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), TViB (Tự Vị Bổ/1666), TTTH (Tứ Thanh Thiên Hải), KH (Khang Hi/1716), VBL (tự điển Việt Bồ La/1651) ĐNQATV (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị/1895).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]