Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hòa thượng Kiribathgoda Gnānānanda Thero, người Nổi tiếng Đương đại

31/10/202019:14(Xem: 4714)
Hòa thượng Kiribathgoda Gnānānanda Thero, người Nổi tiếng Đương đại

Hòa thượng Kiribathgoda Gnānānanda Thero,
người Nổi tiếng Đương đại

 Hòa thượng Kiribathgoda Gnānānanda Thero 1

Hòa thượng Kiribathgoda Gnānānanda Thero sinh ngày 1 tháng 7 năm 1961, vị tăng sĩ Phật giáo Sri Lanka, người kiến tạo Tu viện Phật giáo Mahamevnawa và Mạng lưới Truyền thông Shraddha. Ngài sinh ra trong một gia đình Thiên Chúa giáo, khi lên 6 tuổi cả gia đình Ngài đều quay về với đạo Tổ tiên Phật giáo.

 

Năm 1979, vào ngày 26 tháng 3, 17 tuổi xuân, Ngài đến ngôi già lam cổ tự Seruwila Mangala Raja Maha Vihara, miền đông Sri Lanka, đảnh lễ cầu xin xuất gia với Đại lão Hòa thượng Dambagasare Sumedhankara Mahā Thero, Trưởng của Sri Kalyaniwansa Nikāya và là Trụ trì ngôi già lam cổ tự Seruwila Mangala Raja Maha Vihara vào thời điểm đó. Và thụ giáo học Phật pháp với Trưởng lão Hòa thượng Dikwelle Pannananda Thero tại ngôi già lam cổ tự Seruwila Mangala Raja Maha Vihara.

 

Sau quá trình giáo dục đào tạo truyền thống Phật học Sri Lanka, trong khi thành đạt học vị với Bằng Danh dự Sinhala tại Đại học Sri Jayawardhanapura, Ngài đã có một cơ hội du ngoạn trong rừng thiền thăm thẳm, tung tăng lướt sóng trên biển Pháp mênh mông, Tam tạng giáo điển Pāli; bởi tâm nguyện chuyên tâm đèn sách đọc Tam tạng Thánh điển Phật học, Ngài đã từ bỏ cuộc sống chốn tòng lâm và bắt đầu ẩn tu nhập thất trong rừng sâu núi thẳm, dâng hiến cuộc đời mình cho Đạo pháp và Dân tộc.

 

Sau đó, đã có được kiến thức uyên thâm về Giáo pháp trong nghiên cứu Kinh tạng Pāli suốt thời gian 10 năm, Ngài đã thu thập được vô số kinh nghiệm trong cuộc đời của mình khi sống yên trên dãy Hy Mã Lạp Sơn ở Ấn Độ và rừng sâu núi thẳm Sri Pada ở Sri Lanka.

 

Đã vững tiến bước trên lộ trình giác ngộ giải thoát, và thực hiện đại nguyện hoằng dương chính pháp, thắp sáng ngọn lửa từ bi, trí tuệ, hùng lực của chư Phật, chư Tổ, Hòa thượng Kiribathgoda Gnānānanda Thero đã thành lập Tu viện Phật giáo Mahamevnawa vào tháng 8 năm 1999 tại Waduwava, Polgahawela, tây bắc Sri Lanka. Ngài vân du đó đây khắp nơi để kết duyên Bồ đề quyến thuộc Phật pháp ở nhiều nơi khác nhau trên quốc đảo Phật giáo Sri Lanka, Ngài đã tạo cho người dân tự phát huy chánh tín, niềm tự tin, đức tự chủ, mang lại niềm an lạc trong cuộc sống.

 

Ngài đã kiến tạo chi nhánh Tu viện Phật giáo Mahamevnawa, hiện có 58 tu viện chi nhánh tại Sri Lanka, và 28 tu viện ở các quốc gia, Canada, (3 ngôi) Hoa Kỳ, (4 ngôi) Úc, (5 ngôi) Vương quốc Anh,  (6 ngôi) Đức (7 ngôi) Ý, Dubai, Hàn Quốc và Ấn Độ.

 

Ngài đã trước tác hơn 300 tác phẩm bằng tiếng Sinhala và nhiều cuốn sách khác bằng tiếng Anh.

 

Những cuốn sách Phật học đó cùng với những đĩa CD chứa những bài giảng bằng ngôn ngữ Sinhala, đã nhận được nhiều lời tán thán  ngưỡng mộ từ công chúng.

 

Những ấn bản dịch thuật Kinh tạng đơn giản của Hòa thượng Kiribathgoda Gnānānanda Thero sang ngôn ngữ Sanhala văn phong thật trong sáng, giúp mọi người thuộc bất kỳ địa vị nào trong xã hội đều có thể đọc và hiểu được, là một công trình tuyệt vời bởi công cuộc hoằng pháp lợi sinh của Ngài.

 

Giảng dạy Giáo pháp Như lai mà không có những ý kiến cá nhân bất thường, bằng cách tuyên dương Diệu pháp của Đức Phật, là phẩm chất độc đáo trong công cuộc hoằng pháp xuất sắc của  Thượng tọa Kiribathgoda Gnānānanda Thero.

 Hòa thượng Kiribathgoda Gnānānanda Thero 2

Thông điệp của Hòa thượng Kiribathgoda Gnānānanda Thero

 

Những lời chúc phúc cát tường của Hòa thượng với những tư duy tuyệt hảo!

 

“Sự kiện hiếm hoi và tuyệt vời nhất đã xảy ra suốt 2.600 năm trong lộ trình lịch sử, sự xuất hiện của một nhà hiền triết trí tuệ siêu phàm, ‘Đấng Tự do Bình đẳng, Phật Thích Ca Mâu Ni’.

 

Trong cùng một thời đại, có một khát khao không nguôi trong con người, là tìm ra chân lý của cuộc sống, và để đạt được mục đích đó, họ đã thực hành nhiều phương pháp khác nhau. Tuy nhiên, những người tha thiết như vậy đã may mắn được soi sáng bởi trí tuệ tối cao của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Đức Phật tối cao đã đi tìm họ, và cho họ thấy sự thật của cuộc sống ẩn giấu theo một cách độc đáo mà chưa ai từng đi qua.

 

Đó là sự thật đáng kinh ngạc và cuối cùng mà Đức Phật đã khám phá ra. Một khi họ nghe được những lời vàng ngọc quý báu của Đức Phật, họ đã trở thành những nhà hiền triết thời bấy giờ, mang “Kỷ nguyên Vàng” cho Ấn Độ. Với những kim ngôn khẩu ngọc của Đức Phật, con người đã giải thoát mình khỏi những nỗi khổ niềm đau. Họ đã học cách đối mặt với những thử thách trong cuộc sống của mình mà không đau lòng, và cuối cùng đã cố gắng tuyên bố rằng, họ đã đi đến tận cùng của Luân hồi – Vòng sinh tử.

 

Đức Phật, với tột cùng từ bi tâm của mình, đã cứu chúng sinh thoát khỏi khổ ải sông mê. Đây là thời điểm thành công nhất và đẹp nhất từng xảy ra trong lịch sử gần đây. Mức độ thông minh của con người trong thời đại chúng ta kém hơn so với trí tuệ của con người thời Đức Phật. Họ rất tiến bộ về lý luận và chiêm nghiệm về cuộc sống và không  bị mắc kẹt bởi những thị hiếu đơn giản, giả dối của cuộc sống . . . không giống như thời điểm hiện tại.

Đức Phật tối cao đã diễn thuyết về những cách khác nhau để nhận ra con đường bằng trí tuệ, bằng cách bác bỏ những huyền hoặc của cuộc sống, với những lời giải thích đúng đắn từ “thuyết Nhân quả”. Đạo Phật là tập hợp của những bài kinh cao quý như thế, Giáo pháp, đã đánh thức trí tuệ chân chính của nhân loại thời bấy giờ.

 

Sau khi Đức Phật Nhập diệt, tất cả các đệ tử cao quý (Tăng đoàn) của Ngài, những người đã đạt được Giác ngộ, đã bảo vệ Giáo pháp cho tương lai bằng ngôn ngữ 'Magadhi' (Pali), được sử dụng vào thời Đức Phật tại Ấn Độ. Tăng đoàn cao quý đã trở thành Sứ giả Như Lai, và truyền bá chính pháp Phật đà, tỏa sáng ánh đạo vàng Từ bi, Trí tuệ, Hùng lực khắp thế giới.

 

Sứ mệnh quan trong này đã được thực hiện, và chỉ đạo bởi vị anh minh Hoàng đế Phật tử, Đại hộ pháp Ashoka vĩ đại, vị vua thứ ba của vương triều Maurya thời Ấn Độ cổ đại, trị vì Ấn Độ từ năm 273 đến 232 trước CN. Là một trong những vị Anh minh Hoàng đế kiệt xuất trong lịch sử Ấn Độ, Ashoka đã toàn thắng trong loạt các cuộc chinh phạt và cai trị phần lớn vùng Nam Á, từ Afghanistan cho đến Bengal hiện nay và đi sâu đến miền Nam tận Mysore. Là một vị vua ủng hộ Phật giáo, nhưng từ thuở mới lên ngôi, ông được mệnh danh là Quốc vương Ashoka bạo ác, ông lập ra những khung hình phạt tàn ác giống như các cảnh mô tả trong địa ngục để hành hình tội nhân, và ông đặt tên cho các ngục ấy là địa ngục trần gian. Về sau ông Quy y Tam Bảo và ông đã lập nhiều bia đá ghi lại những thánh tích trong cuộc đời Phật Thích-ca Mâu-ni và theo truyền thống Phật giáo, tên ông gắn liền với việc lưu truyền Phật giáo.

 

Theo sau cuộc Kết Tập Kinh Điển lần thứ 3 (năm 254 TTL), Quốc vương Ashoka đã cử nhiều phái đoàn hoằng pháp ra nước ngoài như Sri Lanka, Myanmar, Malaysi và Sumatra. Ngoài việc chăm lo đời sống ấm no cho người dân, thương dân như con cái, Quốc vương Ashoka còn chăm lo truyền bá ánh sáng của Chính Pháp đến cho dân chúng trong và ngoài xứ Ấn. Quốc vương Ashoka đã hướng dẫn hai người con Hoàng thái tử Mahinda và Công chúa Singhamiha xuất gia làm tăng ni, gia nhập tăng đoàn tu học và sau đó được gởi sang Sri Lanka để hoằng pháp vào khoảng giữa thế kỷ thứ 3 TTL. Phái đoàn hoằng pháp do nhị vị Thánh tăng Thượng tọa Mahinda và Ni sư Singhamiha dẫn đầu đến Sri Lanka để truyền đạo, đã mang theo Tam tạng Thánh giáo và một cây Bồ Đề để trồng tại Sri Lanka, cây Bồ Đề này hiện nay vẫn còn và là một biểu tượng thiêng liêng cao quý đối với Phật tử Sri Lanka. Phái đoàn hoằng pháp này đã thành công khi cảm hóa được đức vua Sri Lanka là Devanampiya Tissa tin theo Phật Pháp và trở thành người hộ trì Chính Pháp tại Sri Lanka qua việc phát tâm xây dựng một Đại Tự (Mahavihara) ở thủ đô Anuradhapura, mở đầu cho việc truyền bá ánh sáng Chánh Pháp trên xứ sở này, để rồi sau đó Phật Pháp được lan tỏa đến Myanmar,Thái Lan và những quốc gia Á Châu khác.

 

 

Như đã nêu trên, nhị vị Thánh tăng Thượng tọa Mahinda và Ni sư Singhamiha được kính trọng nhất, các Ngài đã cung cấp những giáo lý nguyên thủy của Đức Phật Tối cao cho Tổ tiên của chúng ta. Nhị vị Thánh tăng này đã hướng dẫn tổ tiên của chúng ta xuất gia và dự vào hàng ngũ Tăng đoàn. Các đệ tử tại gia cũng đã học Phật pháp và ứng dụng thực tiễn những lời vàng ngọc quý báu của Đức Phật trong cuộc sống thường nhật của họ. Sứ mệnh của nhị vị Thánh tăng Thượng tọa Mahinda và Ni sư Singhamiha đã thành lập Phật giáo Sri Lanka, và bảo đảm sự tồn tại của Chính pháp Phật đà cho nhiều thế hệ tương lai.

 

Thời gian trôi qua, những thay đổi nhiều, đã ảnh hưởng đến các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị, giáo dục và tôn giáo ở mọi nơi trên thế giới. Kết quả là, Phật giáo nguyên thủy và tính thực tiễn của các Phật giáo đồ đã biến mất. Nhưng may mắn thay, những lời dạy quý giá nhất của Đức Phật do nhị vị Thánh tăng Thượng tọa Mahinda và Ni sư Singhamiha truyền lại cho chúng ta và đã được bảo vệ an toàn.

 

Mặc dù tính thực dụng trong Phật giáo của mọi người bắt đầu mờ nhạt, nhưng mọi người vẫn kiên trì tìm kiếm điều gì đó tốt hơn, và thực tế hơn cho bản thân. Hiện nay, công chúng không quá quan tâm đến việc tìm kiếm sự thật về cuộc sống so với thời đại của Đức Phật, nhưng vẫn có một số dân trí quan tâm đến việc điều tra mặt trái của cuộc sống. Tôi đã cố gắng rất nhiều để nghiên tầm tam tạng giáo điển, đối mặt với nhiều thách thức trên hành trình khám phá sự thật cuối cùng này. 

 

Tôi rất diễm phúc khi được đọc đầy đủ giáo pháp cao quý của Đức Như Lai – Sự kế thừa vinh quang của nhị vị Thánh tăng Thượng tọa Mahinda và Ni sư Singhamiha. Đạo Phật là một kho tàng trí tuệ kỳ diệu nhất trên thế giới. Những kim ngôn khẩu ngọc giáo huấn của Đức Phật ban truyền cho chúng ta thấy tài năng bao la, từ bi tâm, hoàn toàn tự giác, tâm hồn trong sáng, trí tuệ tỏa sáng như ánh Nhật Nguyệt và danh tính vô song của người xuất chúng từng xuất hiện trên hành tinh này. Như vầng Nhật Nguyệt tỏa chiếu cùng khắp không gian, thời gian, siêu việt số lượng, phản ảnh một thực tế; sự độc nhất của Như Lai (một trong nhiều danh hiệu đã được dùng để xưng hô với Đức Phật Tối Cao).

 

Năm 1999, tôi bắt đầu một buổi lễ Khánh  thành “Tu viện Phật giáo Mahamevnawa”, như một món quà của buổi lễ tưởng niệm cho sứ mệnh cao cả của nhị vị Thánh tăng Thượng tọa Mahinda và Ni sư Singhamiha. Khi chúng tôi bắt đầu thuyết giảng Giáo pháp từ bi, trí tuệ, hùng lực của Đức Phật, các nhóm dân trí từ khắp nơi trên quốc đảo Phật giáo này đã tụ tập xung quanh chúng tôi, với sự quan tâm ngày càng cao đối với sự thật cuối cùng này. Chúng tôi khuyến khích lòng trung hiếu chỉ tại sự thật đúng đắn mà Đức Phật đã kiên trì chỉ dẫn cho chúng ta. Nếu ai đó tôn trọng và thờ phụng Giáo pháp, phát triển quan điểm sống theo Giáo pháp và thực sự sống theo Giáo pháp, thì người Phật tử mong muốn chân lý, hiển hiện chân lý (Phật tính) của tự thân mỗi người là đủ.

 

Tôi chào mừng tất cả quý vị đến với tổ chức “Tu viện Phật giáo Mahamevnawa” với từ bi tâm. Trong dịch vụ Giáo pháp của chúng tôi, chúng tôi không có giới hạn nào về tuổi tác, chủng tộc, quốc tịch, vùng miền, giới tính, màu da, tôn giáo. Sự thật (Diệu đế, Chân lý) được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã khai thị rộng khắp cho tất cả mọi người. Nếu quý vị phát trí để hiểu sự thật đó, thì sự thật đó là dành cho quý vị, dành cho quý vị nhiều lợi ích và sự bảo vệ an toàn cho của quý vị. Do đó, chúng ta hãy tập hợp xung quanh chân lý đó, Chính pháp Phật đà. Chúng ta hãy học nó, hiểu nó và áp dụng thực tiễn trong cuộc sống thường nhật, phù hợp với nó.

 

Hiện tại, nhiệm vụ cao cả của chúng ta là chia sẻ món quà tuyệt vời của Giáo pháp Như Lai, suối nguồn từ bi tấm mát cho nhân gian, ánh sáng trí tuệ tỏa chiếu sưởi ấm khắp nhân gian, đại hùng đại lực giúp nhân thế dứt sự sợ hãi, giải phóng hết tất cả nỗi khổ niềm đau, cuộc sống ấm no hạnh phúc. Cầu mong cho tất cả quý vị được gia trì bởi Đức Phật Tối cao, Giáo pháp siêu phàm, và Tăng đoàn Cao quý, những người bạn hữu cao quý trong Giáo pháp, và tất cả các Bản tôn!

 

Hòa thượng Kiribathgoda Gnanananda Thero

 

Thích Vân Phong biên dịch

 (Nguồn: Serene Colombo)

 

 




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/03/2020(Xem: 9026)
“Tham” là tham lam. Ham muốn thái quá. Đắm say, thích thú muốn có nhiều những thứ mình ưa thích như tiền tài, sắc đẹp, danh vọng v.v… Lòng ham đó chẳng hề biết chán, càng được thời càng ham. Tham cho mình, rồi tham cho cả bà con quyến thuộc, quốc gia, xã hội của mình. Cũng vì lòng tham, mà nhân loại tranh giành giết hại lẫn nhau. Kẻ tham hay ghen ghét những người thành tựu.
01/03/2020(Xem: 8864)
Với nhiều lý do đó tôi đã rất hân hoan đi mời các bạn tham dự buổi tiệc chay này từ trước một tháng ngay vừa khi thông báo lên . Thế nhưng đâu ai có thể đoán được mọi chuyện gì trong tương lai có thể xảy đến ...dù chỉ vài ngày trước đó nên chi tôi chỉ cầu nguyện thầm cho buổi lễ thật thành công hầu đem lại niềm khích lệ cho những bậc trưởng thượng đang ra sức dựng xây Đạo Pháp nơi hải ngoại . Hy vọng ai ai cũng đều nghĩ đó là duyên phước như tôi thì ngày hôm đó theo tôi nghĩ ......sẽ có rất nhiều người tham dự, vì thực đơn tiệc chay hôm ấy quá tuyệt vời mà các chị trong ban trai soạn vừa bật mí như sau:
29/02/2020(Xem: 6580)
Ngày nay, chúng ta sống ở trên thế gian này hoàn cảnh rất không tốt, rất không bình thường. Ngày qua tháng lại chúng ta điều trải qua ba bữa ăn đắng uống độc trong thịt, trong rau…có rất nhiều độc tố.
27/02/2020(Xem: 6495)
Ai cũng biết cuộc đời ngắn ngủi, thời gian không chờ đợi một ai bao giờ. Là một Tăng Ni trẻ phải biết tận dụng thời gian để học tập, quyết không để thời gian trôi qua một cách lãng phí vô ích. Tăng Ni trẻ phải biết tận dụng thời gian trong việc tu học, nâng cao đời sống tâm linh. Quỹ thời gian của một đời người không nhiều, phải nỗ lực nuôi dưỡng và gieo hạt giống từ bi rộng rãi trên toàn xã hội.
27/02/2020(Xem: 6445)
Xã hội hiện đại này là một loại hình xã hội cần đến sự cập nhật kiến thức liên tục vì tốc độ tăng trưởng thật nhanh . Do đó con đường tốt nhất là đọc sách và học tập suốt đời dù ở bất cứ tuổi nào . Tuy nhiên nếu không có được sự tu tập để tìm được sự bình thản tĩnh lặng trong tâm thì sẽ không nhận được điều gì xảy ra và để nhân thấy được Sự Huyền Diệu của cuộc đời . Khi chúng ta không có tĩnh lặng( những giờ phút riêng tư ) dù phải chịu cảnh cô đơn hay cô độc thì sẽ chẳng bao giờ có thể thấy được sự huyên diệu ấy. Một tâm trí khỏe mạnh là đã loại trừ được những suy nghĩ tiêu cực nhờ vào những suy nghĩ bình tĩnh , biết tập trung để thanh lọc những nỗi sợ hãi, buồn đau khi gặp phải vấn đề rắc rối .
26/01/2020(Xem: 5415)
Hoằng pháp là một trong 13 ban ngành thuộc hệ thống GHPGVN hiện nay. Trong phần báo cáo tổng kết cuối năm 2019, cho thấy Ban Hoằng pháp đạt nhiều thành quả hơn so với những nhiệm kỳ trước. “Hoằng pháp vi gia vụ,lợi sinh vi bổn hoài” đó là phương châm của Ban Hoằng pháp Trung ương; nhờ thế phía Bắc đã vận dụng được bốn Tỉnh có trên 317 đạo tràng sinh hoạt được 1.000 buổi giảng. Phía Nam có 29 Tỉnh thành gồm 6182 đạo tràng với số lượng buổi giảng được thực hiện là 70.693. Đặc biệt, Ban Hoằng pháp Trung ương kết hợp với Phân ban Thông tin truyền thông chuyển tải cập nhật những thông tin sinh hoạt Phật sự. Phân ban TTTT với biệt danh “phật sự online –PSO” là một phân ban, tuy thành lập muộn vào giữa năm 2019, nhưng hoạt đông rất hiệu quả,( sẽ có bài chuyên đề vê PSO đã đóng góp xử lý những khủng hoảng thông tin về Phật giáo)
14/01/2020(Xem: 8249)
Nhờ Tam Bảo gia hộ, các bạn trẻ chúng tôi biết mình là một trong những người cực kỳ may mắn, vì vào mỗi sáng Chủ Nhật đều đủ thiện duyên về Chùa học Phật Pháp. Lớp học của chúng tôi dưới sự hướng dẫn của một vị Sư Cô trẻ, nói được song ngữ Anh Việt, biết lắng nghe và giàu lòng từ bi như Sư Cô Giác Anh. Những lớp học với Sư Cô như nguồn nước mát tinh khiết từ một dòng suối trong lành vô tận mà chúng tôi và các bạn đạo luôn có thể uống, để được giải khát và thanh lọc thân tâm. Từ từ theo thời gian, mỗi chúng tôi đều thấy mình có những sự tiến bộ chút đỉnh về sự bình tĩnh, sự học hỏi và thực hành Phật Pháp và áp dụng những lời dạy thiết thực từ Sư Cô để đối phó tốt hơn với những thử thách hằng ngày.
11/01/2020(Xem: 6444)
Hai tuần qua, mọi người khắp nơi trên thế giới đã từng bừng ăn Tết Dương Lịch 2020. Là người Mỹ gốc Việt định cư ở Hoa Kỳ, Canada, hay những quốc gia khác trên thế giới, chúng ta cũng nằm trong số người đó. Tính đến nay, nhiều gia đình đã trải qua ba, bốn thế hệ. Ông bà, cha mẹ, con cái, dâu, rể, cháu, chắt... Con cái chúng ta sinh ra và lớn lên ở đất nước này, nên chúng ta cần học hỏi, hoà nhập vào nền văn hoá xã hội nơi đây là điều đương nhiên. Riêng thế hệ ông bà, cha mẹ dù định cư ở đâu cũng không quên phong tục tập quán của mình, nhất là khi Xuân về Tết đến, khiến cho chúng ta chạnh lòng nhớ ray rứt những mùa Xuân đầy ấp kỷ niệm thân thương nơi chôn nhao cắt rốn ở quê nhà. Cho nên, hằng năm ở đây, chúng ta thường đón tới hai cái Tết. Đó là Tết Dương lịch quen gọi là Tết Tây và Tết Âm lịch là Tết Ta còn gọi là Tết Nguyên Đán. Tết Nguyên Đán năm nay nhằm ngày 25 tháng Giêng 2020. Tính theo thứ tự mười hai con giáp, năm nay là năm Kỷ Hợi và năm tới là năm Canh Tý.
10/01/2020(Xem: 7310)
May mắn và tài vận của một người, rốt cuộc tới từ đâu? 1. Tới từ một cơ thể khỏe mạnh Ngạn ngữ nói: "Kim niên duẩn tử minh niên trúc, thiếu niên thể tráng lão niên phúc", ý muốn nói: năm nay là măng, năm sau là trúc, thời niên thiếu khỏe mạnh, về già càng nhiều phúc. Sức khỏe tốt mới thực sự là "tốt". Đối đãi với bản thân tốt một chút, không có sức khỏe, mọi thứ đều chỉ là hư vô, chỉ khi có một sức khỏe tốt, bạn mới có thể tận hưởng thành công, tận hưởng cuộc đời của mình. Tiền, kiếm mãi không hết; công việc, làm mãi không xong; không có chuyện gì có thể hoàn thành trong ngày một ngày hai, đừng tự làm mình quá mệt mỏi, quá bí bức mỗi ngày. Hôm nay lấy mạng "đổi" tiền, ngày mai đã có thể lấy tiền "cứu" mạng. Giống như dây đàn vậy, căng quá rồi thế nào cũng đứt.
10/01/2020(Xem: 5237)
Bạn ơi, Muốn sống hạnh phúc thì xin bạn: Đừng đem chuyện hàng xóm vào gia đình. Đừng đem chuyện đường phố vào nhà. Đừng đem chuyện cộng đồng vào những bữa cơm. Đừng đem chuyện của thế giới vào buồng ngủ. Đừng đem chuyện Cộng Hòa hay Dân Chủ, Vào những cuộc vui chơi. Ngay chùa kia nếu bàn tán chuyện đời, Thì chùa cũng biến ngay thành siêu thị.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]