Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thiền Sư Tông Nhất Huyền Sa Sư Bị (835-908) Vị Thiền Sư đặt nền móng cho Thiền Phái Pháp Nhãn

31/10/202015:02(Xem: 18920)
Thiền Sư Tông Nhất Huyền Sa Sư Bị (835-908) Vị Thiền Sư đặt nền móng cho Thiền Phái Pháp Nhãn

 

Nam mô A Di Đà Phật

Kính bạch Sư Phụ

Bạch Sư Phụ hôm nay chúng con được học về  Thiền Sư Tông Nhất Huyền Sa Sư Bị (bài pháp thứ 179 trong thời gian cách ly đại dịch Covid-19)
Ngài có pháp danh là Tông Nhất, pháp hiệu là Sư Bị, nhưng chúng đệ tử gọi là Huyền Sa ( tên của ngọn núi Ngài lưu trú giáo hóa độ sanh.

Ngài là vị Thiền Sư đặt nền móng cho Thiền phái Pháp Nhãn, do Thiền Sư Văn Ích sáng lập, vì ngài là Sư phụ của Thiền Sư La Hán Quế Sâm, TS Quế Sâm là Sư Phụ của Thiền Sư Văn Ích, một dòng truyền thừa không gián đoạn từ Ngài Lục Tổ như lời dự tri trước kia của Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma " Nhất hoa khai ngũ diệp", tức là "một hoa trổ năm cánh", năm cánh đó là "Lâm Tế, Tào Động , Quy Ngưỡng , Vân Môn và Pháp Nhãn". Phật Giáo VN chúng ta thừa tư lợi ích 2 cánh trong 5 cánh này là "Lâm Tế và Tào Động" hiện vẫn còn tồn tại và phát triển. 

Ngài  Tông Nhất có 1 cuộc đời rất kỳ đặc , từ lúc nhỏ đến năm 30 tuổi , Ngài không có đi học, chỉ thích ngồi thuyền câu cá. 
Đúng năm 30 tuổi, Ngài giác ngộ và chấm dứt đi câu cá . Ngài thị hiện nghiệp câu cá để độ cho những người vướng vào nghiệp sát sanh này.  Sư Phụ có kể hai trường hợp đau lòng , một trường hợp hai anh em trai rủ nhau đi câu và bị nước cuốn trôi,  một trường hợp một ông ngồi trên tàu dùng sức kéo cần câu lên vì con cá quá lớn, sau đó viên chì của lưởi câu bật ngược bắn vào mắt rồi xuyên vào óc, ông qua đời tức thì.  Thật đau lòng một nghiệp quá khủng khiếp không thể tưởng. Con thầm niệm Nam Mô A Di Đà Phật, kính mong mọi người đi câu biết nghiệp này mà chấm dứt càng sớm càng tốt.

Ngài lên núi  Phù Dung xin xuất gia với Sư Phụ Linh Huấn rồi đến Chùa Khai Nguyên thọ Đại Giới với Hòa Thượng Đạo Huyền. Sau đó ngài theo gương của Sơ Tổ Ca Diếp tu theo hạnh đầu đà khổ hạnh, chỉ mặc áo gai đi giày cỏ, ăn ngày 1 bữa vừa đủ sống, Ngài phát tâm nhập thất và thọ trì kinh Lăng Nghiêm  và cuối cùng đại ngộ nhờ Kinh này. 

Ngài đến đảnh lễ Tổ Tuyết Phong Nghĩa Tồn như là Sư Phụ của Ngài, và được Tổ Tuyết Phong ấn chứng sau khi trả lời với Tổ là "Đạt Ma chẳng đến Đông Độ, Nhị Tổ chẳng sang Tây Thiên"
Tổ Tuyết Phong ấn chứng cho Ngài Tông Nhất  là Ngài đã thấy "thể tánh tịnh minh, chân tâm thường trú" ở trong mỗi chúng sanh mà không cần phải nhờ đến Sơ Tổ Đạt Ma đến Đông Độ để khai hóa, hay Nhị Tổ Huệ Khả cần đến Tây Thiên để học tu để chứng đắc.

Ngài Tông Nhất ra giáo hóa đồ chúng theo học với Ngài trên 800 người, Ngài khai thị trong thời gian tiệm tu : " không vướng mắc vào lưới Ái của sanh tử,  không để trói buộc vào việc Thiện ác đưa đến tái sanh".

Rốt ráo tối hậu, không nghĩ Thiện, không nghĩ Ác, vượt lên trên đối đải nhị biên ,vượt qua ngã chấp, pháp chấp , mới nhận ra được Phật tánh là thể tánh Tịnh Minh luôn tỏ sáng bên trong của tất cả chúng sanh vạn loài.

Cuối đời Ngài viên tịch rất nhẹ nhàng, thọ thế 74 tuổi, hạ lạp 40 năm.

Bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được Sư Phụ từ bi ban dạy pháp mầu về  cuộc đời tu  rất kỳ đặc của  Tổ Tông Nhất , từ một người câu cá suốt 30 năm nhưng khi buông cần câu xuống, ngài đã vào chùa, cắt tóc xuất gia và trì kinh Thủ Lăng Nghiêm, thấy bản lai diện mục của mình, và để lại cho đời dòng sửa pháp cam lồ tươi mát. Con quá may mắn nghe được lời pháp hôm nay.

Cung kính và tri ơn Sư Phụ,
Đệ tử Quảng Tịnh Tâm
(Montreal, Canada)


130_TT Thich Nguyen Tang_Thien Su Tong Nhat

Kiến tánh nhờ Thủ Lăng Nghiêm


Kính dâng Thày bài thơ khi được Thầy ban cho tư lương
qua những bài pháp thoại quá tuyệt vời . Kính đa tạ , HH


Núi Huyền Sa nổi danh Thiền Sư Tông Nhất ,
Thị hiện câu cá ba chục năm... mới xuất gia .
Ý chỉ Ca Diếp lập hạnh khổ đầu đà,
Từ Thủ Lăng Nghiêm kiến tánh tự ngộ !


Được ấn chứng nhờ “ TÂY THIÊN, ĐÔNG ĐỘ”
Đừng trú tịnh nghiệp cần thấy thể tánh tịnh minh,
Cốt tủy Lăng Nghiêm giáo dạy chúng sinh .
Ngưỡng phục bậc đại trí xứng danh long tượng !
Pháp Nhãn tông môn ngày sau tuân chí hướng !


Kính đa tạ Giảng Sư Thượng Toạ Thích Nguyên Tạng ban tư lương .

Huệ Hương
31/10/2020

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/10/2014(Xem: 8445)
Hồi Thầy mới vào chùa năm 16 tuổi, trên phương diện danh từ thì mình đã được gọi Bụt Sakyamuni là Bổn Sư (Nam Mô Đức Bổn Sư Bụt Sakyamuni). Bổn Sư (tiếng Bắc là Bản Sư) có nghĩa là Thầy tôi. Nhưng kỳ thực đức Bụt mà mình được gặp khi mới vô chùa không phải là một vị Thầy đích thực mà là một nhân vật rất huyền thoại, đầy phép lạ, đầy thần thông, rất xa cách với con người. Mình không được gặp Bụt của đạo Bụt nguyên thủy mà cũng không được gặp Bụt của đạo Bụt tiểu thừa. Hình ảnh Bụt nguyên thủy là một vị Thầy ăn mặc rất đơn sơ, trải bồ đoàn tọa cụ ngồi trên đất, ngồi pháp đàm, nói pháp thoại và ăn cơm với các Thầy. Mình không gặp được hình ảnh đó, vì vậy trên phương diện danh từ mình được gọi là Thầy tôi nhưng kỳ thực giữa mình với đức Sakyamuni có một khoảng cách rất lớn. Đó là một nhân vật hoàn toàn thần thoại, đầy phép lạ.
31/10/2014(Xem: 8313)
Pháp môn mà mình nói tới đó là pháp môn xây dựng tăng thân, được gọi tắt làdựng tăng. Đó cũng là công trình của Bụt, đó là sự nghiệp của Bụt. Ngay sau khi thành đạo, Bụt đã biết rất rõ rằng nếu không xây dựng được một tăng thân thì mình không thể nào thực hiện được sự nghiệp của một vị Bụt. Vì vậy Ngài đã để ra rất nhiều thì giờ và công sức để xây dựng một tăng thân. Ngay trong năm đầu sau khi thành đạo, Bụt đã xây dựng một tăng thân xuất gia gồm có 1250 vị, và tăng thân này đầu tiên xuất hiện tại một rừng kè ở ngoại ô thành phố Rajagraha. Năm Ngài 80 tuổi, Vua Prasenajit (Ba Tư Nặc) có nói một câu rất hay để ca ngợi Bụt về công trình xây dựng tăng thân ấy. Vua nói: Bạch đức Thế Tôn, mỗi lần con thấy tăng thân của đức Thế Tôn là con lại có niềm tin nhiều hơn ở nơi chính đức Thế Tôn.
31/10/2014(Xem: 7728)
Mùa Xuân ta lên núi Hăm hở làm sơn ̣̣đồng Bỏ con đường khói bụi Cho sách vở vời trông... Rời mái trường Vạn Hạnh, còn đang lang thang dạy giờ ở các trường Bồ-đề, ngong ngóng một xuất học bỗng du học, tôi bất ngờ bị Sư Bà áp giải lên núi, sau lời phán quyết chắc nịch: “Con phải học một khóa tu Thiền ba năm với Thượng Tọa, xong rồi muốn đi đâu cũng ̣̣được... Còn bây giờ, dứt khoát là…Không!”.
28/10/2014(Xem: 8050)
Có những gì cần phải sửa trong Kinh Phật hay không? Có những gì cần phải cắt bớt khỏi Kinh Phật, hay cần phải bổ túc thêm cho Kinh Phật hay không? Câu trả lời tất nhiên không dễ. Vì người xưa đã nói, nếu chấp vào nghĩa từng chữ một, có thể sẽ hiểu nhầm ý của Phật; nhưng nếu rời kinh một chữ, lại hệt như lời ma nói. Nguyên văn: Y kinh giải nghĩa, tam thế Phật oan; ly kinh nhất tự, tức đồng ma thuyết.
26/10/2014(Xem: 9496)
Gió mùa thu năm nay, trở nên khô khốc, ảnh hưởng bởi nạn hạn hán trầm trọng nhất trong nhiều thập kỷ qua ở xứ này. Nhưng đâu đó trên hành tinh, mưa thu lất phất bay, và gió thu se sắt gợi buồn; cũng có nơi mưa ngập cả các con lộ chính của thành phố lớn để người và xe cộ phải lội bì bõm trong giòng nước ngầu đục. Và chỗ nọ, chỗ kia, làn gió dân chủ, hòa bình, khơi niềm hứng cảm cho sự vươn dậy của ý thức tự do, khai phóng.
24/10/2014(Xem: 15110)
Một kỷ nguyên mới canh tân kỹ thuật đang lan tràn khắp thế giới và đang tiến đến trưởng thành, đó là mạng lưới thông tin toàn cầu internet (world wide web), một hệ thống truyền thông và môi trường học có sức mạnh. Không nên xem Internet chỉ là một phương tiện mới để truyền bá Giáo Pháp với một hình thức mới, mà Internet còn có tiềm năng là một căn cứ cho một cộng đồng Phật Giáo trên mạng (online) cống hiến những giá trị xã hội và tâm linh cho mọi người.
24/10/2014(Xem: 8670)
Chuyện kinh Phật kể rằng, tự ngàn xửa ngàn xưa, hằng hà sa kiếp trước, có con thỏ ngọc nọ thấy bầy đàn đang lúc giá rét cuối đông, chẳng kiếm được chút rau cỏ gì cho nguôi cơn đói bụng ; thỏ nọ liền “hưng khởi đại bi tâm” nhảy vào đám lửa đang cháy rực hồng, tự biến thân mình thành thịt nướng cho bầy đàn ăn đỡ đói. Khi bầy đàn thỏ no nê thì cũng là khi thân thỏ nọ chỉ còn sót lại mấy miểng xương đen. Phật biết đại bi tâm của thỏ từ đầu, bèn nhặt xương thỏ đem về cung quảng, phục sinh và đặt tên cho thỏ là NGỌC THỐ - có nghĩa là Thỏ Ngọc, một sinh thể có đại bi tâm quý như ngọc; thứ ngọc Phật từng nói đến trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Bấy giờ, cuộc đời thỏ ngọc ngày đêm yên ả nơi cung trăng, tự thân sớm hôm trau dồi công dung ngôn hạnh khiến biết bao người chung quanh nâng niu, thương yêu chiều chuộng.
23/10/2014(Xem: 13466)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia. Tuyển tập các bài viết này gồm ba mục đích chính: (i) Xóa bỏ mê tín dị đoan và các tập tục hủ lậu, (ii) Giới thiệu Phật pháp căn bản, giúp người đọc hiểu rõ các giá trị thiết thực của đạo Phật, (iii) Đính chính các ngộ nhận về các khái niệm thầy tu, giải thoát, giá trị trị liệu của thiền và bản chất hạnh phúc trong hiện tại. Dầu được viết trong nhiều thời điểm khác nhau cho nhiều đối tượng độc giả, tác giả chú trọng đến việc giới thiệu về hình thái đạo Phật nguyên chất, xây dựng niềm tin bằng lý trí, giới thiệu đạo Phật từ góc độ ứng dụng trong đời sống, so sánh những điểm dị biệt và sự vượt trội của đạo Phật đối với các truyền thống và tín ngưỡng khác.
23/10/2014(Xem: 8988)
Bằng cách này hay cách khác, Đức Phật luôn gợi nhắc cho chúng ta rằng mỗi người chúng ta đều sở hữu các khả năng và phẩm chất tốt đẹp, cần phải biết vận dụng và phát huy để làm cho cuộc sống trở nên giàu sang hiền thiện, tránh mọi khổ đau và để thực nghiệm hạnh phúc an lạc. Trong bài kinh Nghèo khổ thuộc Tăng Chi Bộ, Ngài đơn cử câu chuyện một người nghèo túng về của cải vật chất nhưng không biết cách nỗ lực khắc phục tình trạng nghèo khó của mình nên phải liên tiếp rơi vào các cảnh ngộ khó khăn để nhắc nhở chúng ta về các tai họa khổ đau mà chúng ta sẽ phải đối diện, nếu không biết nỗ lực nuôi dưỡng và phát huy các phẩm chất đạo đức và trí tuệ của mình.
23/10/2014(Xem: 10793)
Tục lệ, hay những lễ nghi đã trở thành thói quen, là văn hóa được ước định của một dân tộc. Sự hình thành tục lệ thường chịu ảnh hưởng của phong tục tập quán trong dân gian, hoặc do sự thực hành các tín ngưỡng tôn giáo lâu ngày của một cộng đồng. Sau khi truyền vào Trung Quốc, Phật giáo không chỉ đi sâu vào dân gian, hòa nhập với đời sống, từng bước hình thành nên một bộ quy phạm lễ nghi về “hôn táng hỷ khánh” (dựng vợ gả chồng, chôn cất người chết, thể hiện niềm vui, bày tỏ việc mừng); mà còn có tác dụng thay đổi phong tục đối với các thói quen dân gian mang đậm màu sắc mê tín trong các việc như: tổ chức hôn lễ rườm rà; đoán số mệnh dựa trên bát tự(1); miễn cưỡng tổ chức việc vui trong lúc gia đạo đang gặp rắc rối với mong muốn giải trừ vận xui, tà khí, chuyển nguy thành an, gọi là xung hỷ; thực hành tục minh hôn(2); duy trì lối khóc mộ; xem phong thủy…
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]