Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tuổi mười hai

23/09/202007:43(Xem: 4978)
Tuổi mười hai

Tuổi mười hai

Thơ: Hoang Phong

Diễn ngâm: Hồng Vân


lotus_53




     







      Tóc em mẹ còn chải,

Chiếc kẹp chưa biết cài.

E thẹn chẳng dám nhìn,

Yêu anh tuổi mười hai.

 

Cổng trường không có ai,

Anh cho em cánh hoa,

Vén mái tóc em cài,

Yêu anh tình mười ba.

 

Một hôm không gặp anh,

Em ngồi học một mình,

Viết tên anh trên giấy.

Tình mười bốn thơ ngây.

 

Lắm đêm em thao thức,

Ôm chiếc gối em nằm,

Mơ thấy chuyện vợ chồng.

Sợ khiếp tình mười lăm.

 

Bâng khuâng tuổi trăng tròn,

Hay tựa cửa ngắm mây.

Mẹ nhìn em, em thẹn,

Tình mười sáu hây hây.

 

Tuổi mười bảy biết buồn,

Yêu anh anh chẳng đoái.

Tâm sự với ai đây?

Khổ đau tình mười bảy.

 

Tuổi mười tám thôi học,

Lặng lẽ tình trôi đi.

Em thường ngồi em khóc,

Mười tám tình chia ly.

 

Vài người đến dạm hỏi.

Mẹ gả em theo chồng.

Thời gian dừng lại đấy,

Quanh em khoảng trống không.

 

Hôm nay trời trở rét,

Mùa đông đã đến rồi.

Kiếp người chừng có vậy?

Tình yêu giấc ngủ say.

 

Sân trường đón cháu ngoại,

Chực nhớ tuổi mười hai.

Nhớ thật dài giấc mơ,

Yêu anh tình ngây thơ.

 

Tiếng đàn trẻ nô đùa,

Đánh thức tình tuổi nhỏ,

Tiếc ngày xưa ngây thơ.

Anh ở đâu bây giờ?

 

                                    Bures-Sur-Yvette, 10.12.97

 

            Một cách tổng quát, sự sinh hoạt của con người được thúc đẩy bởi ba thứ bản năng: sinh tồn, sợ chết và truyền giống. Bản năng sinh tồn là bản năng mạnh nhất, gây ra các tác động sớm nhất. Một đứa hài nhi khi mới lọt lòng đã biết tìm vú mẹ, đói thì khóc. Lớn lên bản năng sinh tồn tạo ra các xung năng và thúc đẩy ích kỷ, tham lam, thèm khát, tranh giành miếng ăn, của cải, đưa đến hận thu, xung đột và cả chiến tranh.

 

            Bản năng thứ hai là sự sợ chết, bản năng này cũng gây ra các tác động khá sớm, kín đáo, có nhiều khía cạnh gần với bản năng sinh tồn, chẳng hạn một tiếng động mạnh cũng có thể khiến một đứa hai nhi giật mình và khóc thét, nó sẽ cảm thấy an tâm hơn khi được mẹ bồng bế trong tay. Lớn thêm, một đứa bé bắt đầu sợ bóng tối, kêu khóc khi bị vấp ngã hay đứt tay. Bước vào tuổi trưởng thành, ý thức được cái chết là gì thì hầu hết mọi người đều sợ chết. Một con siêu vi khuẩn bé tí xíu cũng có thể khiến cả nhân loại mang khẩu trang. Hậu quả trực tiếp tạo ra bởi bản năng sợ chết là sự hình thành của tín ngưỡng. Tín ngưỡng giúp con người bớt sợ chết bằng cách nêu lên các viễn tượng vượt lên trên cái chết. Thế nhưng thật trớ trêu, con người lại không hoàn toàn đồng ý với nhau về các cách hình dung ra các viễn tượng đó. Xung đột và chiến tranh tôn giáo dường như bắt nguồn từ những sự bất đồng chính kiến đó, và chưa bao giờ chấm dứt trên hành tinh này. Bản năng sinh tồn ghép thêm bản năng sợ chết phải chăng đã khiến con người chém giết thật hăng say?

 

            Bản năng tứ ba là bản nang truyền giống. Bản năng này phát sinh tương đối muộn hơn so với hai thứ bản năng trên đây. Khi một đứa bé bắt đầu ý thức được giới tính của mình thì nó cũng bắt đầu ý thức được sự khác biệt giữa nam và nữ. Sự ý thức đó dần dần trở nên rõ rệt hơn tạo ra cho nó các cảm tính luyến ái và bám víu, một hình thức bổ khuyết trên phương diện giới tính, mà người ta thường gọi là "tình yêu". Qua cách gọi "tuyệt đẹp" đó, bản năng truyền giống hiện ra với thật nhiều màu sắc. Hầu hết tất cả mọi sinh hoạt nghệ thuật của con người đều phát sinh từ các màu sắc đó. Văn chương, thi phú, âm nhạc, hội họa, ca vũ, kịch nghệ, phim ảnh, mỹ phẩm, thời trang..., tất cả đều phản ảnh - chỉ ít hay nhiều - bản năng truyền giống. Đối với muôn thú cũng vậy, màu lông, tiếng hót, tiếng kêu, điệu vũ... tất cả đều đều phản ảnh bản năng truyền giống.

 

            "Tình yêu" phải chăng là nét đẹp nhất trong sự sinh hoạt và sự sống của con người ở một lứa tuổi nào đó? Sự giàu sang, các bữa ăn thịnh soạn hay chiếc huân chương trên ngực áo, không sao sánh kịp với các xúc cảm vô hình của "tình yêu". Nếu không có "tình yêu" muôn màu thì giống người cũng đa tiệt chủng từ lâu. Dân số gia tăng rất nhanh trên này địa cầu này cho thấy tác động rất mạnh của các màu sắc đó. Thế nhưng cũng nên ý thức về các hậu quả mang lại, nếu tô màu hồng cho tình yêu thì phải cố gắng nuôi con, nếu tô màu đỏ thì khó tránh khỏi ghen tuông và thù hận, nếu tô màu đen thì cũng nên cẩn thận, vì có thể đấy là cách mang cả mạng sống của mình để thách đố với tình yêu.

 

            Tóm lại ba thứ bản năng trên đây chính là tác giả, ngòi bút và các trang giấy viết lên lịch sử vô cùng phức tạp của nhân loại trong mọi lãnh vực sinh hoạt: từ vật chất đến tinh thần, từ nghệ thuật đến tín ngưỡng, từ miếng ăn đến của cải, từ lãnh thổ đến chiến tranh. Dù đã đủ ăn thế nhưng con người vẫn cứ muốn thật giàu có, dù hiểu được cái chết không sao tránh khỏi, thế nhưng vẫn cứ sợ chết, dù đã quá tuổi truyền giống, thế nhưng vẫn cứ nhớ mãi một tình yêu:

 

Ttiếng đàn trẻ nô đùa,

Đánh thức tình tuổi nhỏ,

Tiếc ngày xưa ngây thơ,

Anh ở đâu bây giờ?

 

            Thế nhưng giữa sự phức tạp của nội tâm mình và sự biến động của thế giới chung quanh, dường như cũng có một sự thúc đẩy nào đó, một sức mạnh thật bao la giúp con người vượt lên trên cả ba thứ bản năng ấy: đó là lòng từ bi. Dù không biết đích xác lòng từ bi có phải là một thứ bản năng hay không, thế nhưng chắc chắn nó là một thứ xúc cảm thật cao cả, nằm thật sâu bên trong con tim mình, có thể hóa giải được mọi hình thức tranh giành, xung đột, chiến tranh và cả những thứ bám víu và thèm khát bên trong tâm thức mình, mở ra cho mình một thế giới an bình và thanh thản hơn.  

           

           

                                                                                                Bures-Sur-Yvette, 21.09.20

                                                                                                            Hoang Phong

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/02/2021(Xem: 5440)
Phật Giáo Việt Nam kể từ khi lập quốc (970) đến nay đã đóng góp rất lớn cho nền Văn Học Việt Nam qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần..v..v.. nhưng không có một Quốc Sử Việt Nam nào ghi nhận cả, điều đó thật là đau buồn, mặc dù Phật Giáo Việt Nam thời bấy giờ và cho đến bây giờ không cần ai quan tâm đến. Phật Giáo Việt Nam nếu như không có công gì với núi sông thì đâu được vua Đinh Tiên Hoàng phong Thiền sư Ngô Chân Lưu đến chức Khuông Việt Thái Sư và chức Tăng Thống Phật Giáo Việt Nam vào năm Thái Bình thứ 2 (971). Cho đến các Thiền sư như Pháp Thuận, Vạn Hạnh,v..v.... đều là những bậc long tượng trong trụ cột quốc gia của thời bấy giờ, thế mà cũng không thấy một Quốc Sử Việt Nam nào ghi lại đậm nét những vết son cao quý của họ.
23/02/2021(Xem: 10440)
Văn học thời Trần là giai đoạn văn học Việt Nam trong thời kỳ lịch sử của nhà Trần (1225 – 1400). Văn học thời Trần tiếp tục và có nhiều bước tiến bộ rõ rệt hơn so với văn học thời Lý (1010 – 1225). Văn học thời Trần chịu ảnh hưởng của Phật giáo và Nho giáo. Tư tưởng Phật giáo chủ yếu trong văn học thời Trần là tư tưởng thiền học.
23/02/2021(Xem: 9247)
Trong nội dung của ấn bản lần thứ hai của quyển “Tư tưởng Phật giáo trong Văn học thời Lý”, chúng tôi vẫn giữ những điểm chính quan trọng của ấn bản lần thứ nhất. Tuy nhiên, chúng tôi đã sửa chữa và bổ sung một vài nơi. Chúng tôi đánh giá cao sự góp ý và phê bình của: GS Lưu Khôn (Cựu GS tại trường ĐHVK Saigon và Cần Thơ), GS Khiếu Đức Long (Cựu GS tại ĐH Vạn Hạnh), Ô. Nguyễn Kim Quang (Cựu học sinh Lycée Petrus Ký 1953-1960), cố Kỹ Sư Nguyễn Thành Danh (Vancouver, Canada). Trong khi viết quyển sách này lần thứ nhất vào năm 1995, chúng tôi đã được sự giúp đỡ và góp ý của các thân hữu: cố Hoà Thượng Thích Nguyên Tịnh (Cựu Trú trì Chùa Thiền Tôn, Vancouver, Canada), cố GS Nguyễn Bình Tưởng (Cựu Hiệu Trưởng trường Trung Học Vĩnh Bình, và Cựu Giám Học trường Trung Học Nguyễn An Ninh, Saigon), chúng tôi chân thành cám ơn quý vị này.
20/02/2021(Xem: 6549)
Thơ tụng tranh chăn trâu của thiền sư Phổ Minh gồm tất cả mười bài thơ “tứ tuyệt” cho mười bức tranh chăn trâu với các đề mục sau đây: 1. Vị mục: chưa chăn 2. Sơ điều: mới chăn 3. Thọ chế: chịu phép 4. Hồi thủ: quay đầu 5. Tuần phục: thuần phục 6. Vô ngại: không vướng 7. Nhiệm vận: theo phận 8. Tương vong: cùng quên 9. Độc chiếu: soi riêng 10. Song mẫn: cùng vắng
20/02/2021(Xem: 8950)
Kinh Hoa Nghiêm được giải thích là kinh đầu tiên khi Phật đạt chánh đẵng chánh giác sau 49 ngày thiền định. Sau đó người giảng kinh Hoa Nghiêm cho chư thiên và bồ tát là giảng bằng thiền định tâm truyền tâm nên im lặng suốt 21 ngày. Kinh Hoa Nghiêm nói về Tâm. Kế đến Kinh Lăng Già Phật cũng giảng cho Ma vương và ma quỷ sống trong hang động ở đỉnh núi Lăng Già. Phật giảng bằng tâm truyền tâm ấn nên không có nói bằng lời và giảng về Thức vì Ma vương không còn uẩn sắc nữa mà chỉ còn là tâm thức. Kinh Lăng già là giảng về Duy Thức Luận. (bài viết của cư sĩ Phổ Tấn)
20/02/2021(Xem: 5116)
Washington: Theo báo cáo của The Economist, Trong nỗ lực mới nhất nhằm thắt chặt vòng vây Tây Tạng, Trung Cộng đang buộc người Tây Tạng ít quan tâm đến tôn giáo của họ hơn, và thể hiện nhiệt tình hơn đối với chế độ độc tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc do Tập Cận Bình lãnh đạo tối cao. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tăng cường nỗ lực phủ nhận vai trò của Đức Đạt Lai Lạt Ma ra khỏi đời sống tôn giáo của người dân Tây Tạng để xóa bỏ danh tính của họ. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cưỡng chiếm Tây Tạng vào giữa thế kỷ 20 sau thập niên 1950, và kể từ đó đã kiểm soát khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal, và Pakistan tại châu Á, ở phía bắc-đông của dãy Himalaya..
17/02/2021(Xem: 5315)
Nội dung tác phẩm dựa trên một bức tranh nổi tiếng có tên là “Thanh minh thượng hà đồ” (nghĩa là “tranh vẽ cảnh bên sông vào tiết Thanh minh”) của nghệ sĩ Trương Trạch Đoan vào thời nhà Tống cách đây hơn 1000 năm. Thiên tài Albert Einstein đã từng nói: “Nghệ thuật thật sự được định hình bởi sự thôi thúc không thể cưỡng lại của người nghệ sĩ sáng tạo”. Và một nghệ sĩ điêu khắc người Trung Quốc – Trịnh Xuân Huy đã chứng minh điều đó qua kiệt tác nghệ thuật của ông trên một thân cây dài hơn 12 mét. Chắc chắn bạn sẽ phải ngạc nhiên về một người có thể sở hữu tài năng tinh xảo đến như vậy!
17/02/2021(Xem: 5754)
Một quán chiếu về những ánh lung linh trên bề mặt một hồ nước gợn sóng lăn tăn bởi làn gió nhẹ. Một con sông khổng lồ của si mê tin tưởng sai lầm tâm-thân là tồn tại cố hữu tuôn chảy vào hồ nước của việc hiểu sai cái "tôi" như tồn tại cố hữu. Hồ nước bị xáo động bởi những làn gió của tư tưởng phiền não chướng ngại ẩn tàng và của những hành vi thiện và bất thiện. Sự quán chiếu ánh trăng lung linh biểu tượng cho cả trình độ thô của vô thường, qua sự chết, và trình độ vi tế của vô thường, qua sự tàn hoại từng thời khắc thống trị chúng sanh. Ánh lung linh của những làn sóng minh họa tính vô thường mà chúng sanh là đối tượng, và quý vị thấy chúng sinh trong cách này. Bằng sự ẩn dụ này, quý vị có thể phát triển tuệ giác vào trong vấn đề chúng sinh bị kéo vào trong khổ đau một cách không cần thiết như thế nào bằng việc điều hướng với tính bản nhiên của chính họ; tuệ giác này, lần lượt, kích hoạt từ ái và bi mẫn.
16/02/2021(Xem: 4619)
Nói về pháp khí, nhạc khí của Phật giáo là nói đến chuông, trống và mõ. Trong ba pháp cụ đó. Tiếng chuông chùa đã gợi nguồn cảm hứng không ít cho những văn, thi sĩ. Hiện nay rất ít tài liệu nói về nguồn gốc của chuông, trống và mõ. Sự kiện trên khiến các học giả nghiên cứu về chuông, trống, mõ gặp trở ngại không nhỏ. Tuy thế dựa vào bài Lịch sử và ý nghĩa của chuông trống Bát nhã do thầy Thích Giác Duyên viết đã đăng trong Thư Viện Hoa Sen, khiến chúng ta biết được người Trung Hoa đã dùng chuông vào đời nhà Chu ( thế kỷ 11 Trước CN – 256 Trước CN ). Riêng việc chuông được đưa vào các chùa chiền ở Việt Nam từ thời nào người viết không biết có tài liệu nào đề cập đến không?
14/02/2021(Xem: 5201)
Pháp Hoa kinh là vua của các kinh vì ở vào thời kỳ thứ 5 trong lịch sử đạo Phật. Lúc bấy giờ là cuối đời thọ mạng của đức Phật nên kinh giảng của người mang toàn bộ tính chất của đạo Phật do người thuyết pháp. Có hai cốt lỏi của kinh Pháp Hoa là Phật tánh và Tri kiến Phật. Phật tánh đã được tóm lược trong bài Nhận biết Phật tánh cùng tác giả. Tri là biết, kiến là thấy, biết thấy Phật là gì? Biết là tuệ giác người dạy cho chúng ta và thấy là thấy đại từ bi của Phật. Đó là trí tuệ và từ bi là đôi cánh chim đại bàng cất cao bay lên trong tu tập. Chúng ta nghiên cứu trí tuệ của toàn bộ đạo Phật một cách tổng luận để tư duy, về phần từ bi chúng ta đã hiểu qua bài Tôi Học kinh Pháp Hoa đồng tác giả. Trí tuệ đạo Phật có gồm hai phần triết lý đạo Phật và ứng dụng. Tri kiến Phật là nắm hết các điểm chính của đạo Phật theo lịch sử của thời gian. Chúng ta hãy đi sâu về tuệ giác.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]