Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Huế của vườn xưa

09/09/202021:01(Xem: 5583)
Huế của vườn xưa
Huế của vườn xưa
Nguyên Hạnh HTD
Thanh-pho-hue-2

Corona đã giam lỏng tôi từ ngày này qua ngày khác, thần kinh của tôi vẫn còn bình thường là may mắn lắm rồi! Hết đi vào rồi lại đi ra, chưa bao giờ thấy thời gian trôi qua nặng nề như vậy. Cả ngày phải kiếm việc để làm, hết lau cửa lớn đến chùi cửa sổ, chùi đến nỗi không còn cửa để mà chùi nữa.

Lòng buồn hoang mang, mong chờ tình hình sáng sủa hơn nhưng vẫn không thấy một tia sáng cuối đường hầm; ngày 28.03.2020 số người chết ở Đức mới 399 người mà nay trong vòng tháng rưởi đã lên hơn 7000 người rồi!

Buồn quá! Thôi thì đành ngồi một chỗ thả hồn về quá khứ cho đầu óc bớt căng thẳng. Nơi chốn êm dịu nhất trong lòng tôi vẫn là xứ Huế thân yêu dù xa xôi vạn dặm nhưng nỗi nhớ vẫn mãi khắc ghi.

Huế là thành phố vườn; vườn cây, chim muông hoa cỏ, sông hồ, con đò, câu mái nhì, sương mù, trời xanh mây trắng, thi ca, âm nhạc... đã làm nên thiên nhiên Huế, tâm hồn Huế, con người Huế và đã được mệnh danh là Huế thơ, Huế mộng.

Tuổi thơ tôi trôi từ vườn thanh trà Nguyệt Biều quê nội, qua vườn cau Lương Quán của bà Ngoại, trôi từ ban mai u hoài sang hoàng hôn cô tịch, từ giọt nước mắt nhớ mẹ sang nụ cười bé thơ hái me, trèo ổi.

Suốt cuộc đời mình, khi vui buồn, khi khắc khoải ưu tư, tôi luôn ngoảnh lại tuổi thơ để được đắm mình vào vười xưa yêu dấu. Ôi. Những ngày xưa, nơi tôi hằng vịn tay ôm lấy cột nhà những hoàng hôn, mong nhận được lời an ủi xẻ chia, thương xót mà sao cây cột vẫn im thin thít lạnh lùng vô cảm. Rất nhiều khi tôi thèm một bờ vai người lớn tựa đầu vào và oà khóc cho vơi nỗi niềm cô đơn của đứa con sớm mất Mẹ. Vườn Huế xưa chính là bờ vai để tôi nương tựa, là bàn tay dìu tôi đi cùng chim chóc, cùng gió thổi mây bay.

Hơn nửa thế kỷ trôi qua rồi mà hương cau thoang thoảng sương mờ đêm đêm vẫn còn ngan ngát giấc mơ tôi. Thuở ấy, đêm Huế vườn xưa tĩnh lặng đến như nghe được tiếng thì thào của trăng sao!

Trời Huế buồn thương lặng cả gió ngàn lẫn với tiếng ầu ơ, ví dầu xa thẳm. Tiếng kẽo kẹt võng đưa nhà bên cạnh, tiếng vạc đơn lẻ kêu thiết tha, qua cửa sổ tàu lá chuối đẵm ánh trăng, hương lài, hương ngâu, hương sói, hương thiên lý ngào ngạt cả đêm khuya.

Dường như đêm Huế vườn xưa êm ái hơn, tiếng dế gáy râm ran, nửa như than khóc tỉ tê. Dế trong hang đất ngoài vườn, dế trong lỗ thông hơi các viên gạch, dế vẫn chung tình mang cả dàn nhạc bát âm ca hát ru tôi ngủ thay lời mẹ ru từ hồi thơ dại!

Những mùa đông vườn Huế xưa cũng rét co ro, ánh trăng cũng lạnh run rẩy, gió thở than trên cây mù u ngoài vườn sướt mướt, tiếng chim tìm nhau thảng thốt tưởng chừng như trời đất cũng đơn độc, cũng như đang thiếu thốn mái ấm gia đình. Ngoại lấy tình thương ấp ủ cháu, ổ rơm nào ấm bằng lời Ngoại ru, lời Ngoại thiết tha trìu mến, dáng Ngoại trùm lên năm tháng bơ vơ côi cút của tôi, làm bớt đi niềm quạnh hiu tủi phận, an ủi những hoàng hôn bàng bạc kiếp người. Ngoại là khu vườn Huế xưa thuộc về dĩ vãng nhưng sao vẫn sống mãi đâu đó tận đáy lòng tôi.

Vườn Huế xưa ơi! Đâu rồi những cây me đất biến thành bữa cỗ trong trò chơi nấu ăn của trẻ con, những vỏ nghêu vỏ sò làm chén vàng, chén ngọc, những nồi đất nhỏ, những chiếc lá làm tiền bán mua, những cuộc trốn tìm, những lần bịt mắt bắt dê, những lần bị những con ngỗng bên vườn hàng xóm đuổi chạy trối chết. Sau này lớn lên tôi mới biết không chỉ có ngỗng mới thích đuổi theo trẻ nít, tình ái kia có phải ngỗng đâu mà sao nó cũng thích đuổi theo người bỏ chạy, dù người đó không còn là trẻ thơ.

Rồi mùa ổi chín, mùa mít chín, mùi thị chín và chín suốt cả mùa hè, rủ rê chim về như một hội chợ chim: chim sáo, chim chìa vôi, chim chèo bẻo về làm trẻ con vui như Tết. Những đám mây vườn Huế chừng như cũng đang chuyên chở mùi chín mọng, thơm lừng theo gió ngát hương bay, từ cửa Thuận An thổi về làm nắng mới hây hây. Mỗi lần leo lên cây ổi hái chùm trái chín, tôi mới ngó thấy trời cao, thấy núi Ngự Bình “ngồi ngắm“ sông Hương như thể núi đang đợi ai ngoài xứ Huế...

Tôi nhớ đủ thứ... nhớ con cá chuồn Cầu Hai, tôm tép ngoài Truồi, ngoài Sịa cùng với gạo thơm Phong Điền Phú Vang, Phú Lộc... nuôi chúng tôi nên người, phả vào tâm hồn tôi hương gió hương cây những vườn xưa mênh mang xứ Huế, mênh mang giọng hò mái nhì ngoài sông nước Hương Giang. Lớn lên tôi mang hương vườn vô trường Đồng Khánh, cùng bạn bè đạp xe lên thăm nhà vườn Kim Long ngút ngàn 4 mùa mà yêu thêm vườn Huế. Có đêm nằm mơ thấy núi Ngự Bình bỏ Huế mà đi xứ khác để sông Hương lẻ bóng, sáng thức dậy vội chạy ra cửa hoàng thành ngó lên trời thấy Ngự Bình vẫn còn đó mà mừng như thể người thân mất hút nay bỗng trở về.

Rốt cuộc, vì sự sống tôi đành xa xứ Huế; đời sống làm vợ, làm mẹ rồi làm bà, tôi đã gởi lại thiên đường tuổi thơ cho Huế độc quyền cất giữ. Nơi nào cất giữ tuổi thơ ta, nơi đó mãi mãi là quê hương. Quê hương ủ đời tôi trong bóng mát vườn Huế xưa như ủ men đời. Ở tuổi mùa thu của cuộc đời, men rượu Huế vườn xưa sao vẫn còn vo ve ong bướm, còn ríu rít chim muông thổi vào hồn tôi sức sống.

Nhớ hoài vườn cau Lương Quán của Ngoại, vườn Nội Nguyệt Biều; cả hai vẫn theo tôi suốt cả cuộc đời; đôi khi giúp tôi thấy mình bé nhỏ an phận trong vỏ bọc vườn quê mà an lạc, mà quên đi những lo toan, nặng nhọc mưu sinh, tranh đấu sống còn trong đời. Khi đến tuổi bà ngoại, tôi càng nhớ Ngoại mình hơn. Đầu óc tôi, tâm hồn tôi chừng như vẫn cất dấu những thiên đường u buồn mà hoan lạc một thời những vườn xưa lưu dấu, nơi con chuồn chuồn đậu vào tia nắng Huế, nơi tôi đã vin vào giậu mồng tơi mà nhớ những câu ca dao, câu hò, lời ru của Ngoại, của bà vú mà ngẩn ngơ!

Vườn Huế xưa êm dịu, tôi đang ngó thấy tôi trong tấm gương phôi pha của thời gian, bàn chân mình đã biến lối nhỏ trong vườn cây thành con đường xa xứ. Khi xa vòm trời tuổi thơ, liệu tôi còn có thể tìm thấy gió heo may Huế bàng bạc trong không gian, nghe lại tiếng chim họa mi hót ríu rít mỗi chiều hè ngoài vườn xưa nữa không?

Ngoại không còn, mẹ cha cũng không còn, vườn xưa thành vườn của người khác. Huế bây chừ đâu phải Huế ngày xưa, ngay con cá ngạnh nguồn cũng không còn biết cách đổi buồn làm vui như trước. Nhưng trong tâm hồn tôi vườn Huế xưa vẫn còn nguyên vẹn: một vòm trời gợn sóng nước Hương giang, một hơi thở phả ra từ cửa Thuận, một màu xanh biên biếc như thể núi Ngự Bình kéo hết cỏ cây lên trời mà ấp ủ niềm thương nhớ, mà nghe câu hò bến Phú Vân Lâu mê mẩn tiếng chim chiều tim tím. Huế ơi!!

10- 05- 2020

(Ngày nhớ Mẹ)

Nguyên Hạnh HTD


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/05/2011(Xem: 7911)
Nhân quả đồng thời được nói một cách cô đọng trong kinh Pháp Hoa, kinh Hoa Nghiêm… và rải rác trong các kinh điển Đại thừa. Có lẽ người đầu tiên dùng thành ngữ “nhân quả đồng thời” là Đại sư Trí Khải (thế kỷ thứ 6) trong Pháp Hoa Huyền Nghĩavà trong các tác phẩm Thiên Thai tông của ngài, y cứ trên kinh Pháp Hoa. Thành ngữ này cũng là một giáo lý chính yếu của Hoa Nghiêm tông vào thế kỷ thứ 7. Nói một cách vắn tắt và đơn giản, nhân quả đồng thời là quả giác ngộ, quả Phật vốn đã nằm nơi nhân tu hành để đạt đến giác ngộ, để thành Phật. Nhân của thành Phật là “nhân địa pháp hạnh của Như Lai” được nói trong kinhViên Giác:
14/05/2011(Xem: 14553)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sáng và tinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
14/05/2011(Xem: 7262)
Phật Đản lại về, cuối xuân đầu hạ, cây đủ lá xanh tràn trề sức sống, hoa sen rộ nở đóa đóa diệu hồng, trắng mát, tỏa hương khoe sắc, như đón bậc vĩ nhân...
12/05/2011(Xem: 6547)
Hầu hết mọi người Phật tử Việt Nam đều không những có nghe biết mà còn thường xuyên sử dụng từ ngữ “Phật sự” Nhưng chính vì được nghe biết và sử dụng quá thông thường, cho nên, đôi khi chúng ta lại không có cơ hội để suy nghiệm về ý nghĩa thâm diệu của nó để ứng xử một cách kiến hiệu trong đời sống thường nhật. Cũng vì lý do này đã dẫn đến việc đánh mất tinh thần cốt tủy trong các Phật sự mà chúng ta đã, đang và sẽ thực hiện.
11/05/2011(Xem: 5644)
Sống ở đời, chúng ta ai cũng có những nỗi khổ niềm đau, dù ít hay nhiều. Bởi thân thể ta đau nhức là khổ, giận hờn là khổ, tiếc thương cũng khổ… Có rất nhiều yếu tố làm cho ta khổ, nhưng chung quy mọi khổ đau đều xuất phát từ chính mình.
09/05/2011(Xem: 14870)
"Tây phương không có ngày Vu Lan nhưng cũng có Ngày Mẹ (Mother's Day) mồng mười tháng năm (năm đó). Tôi nhà quê không biết cái tục ấy. Có một ngày tôi đi với Thầy Thiên Ân tới nhà sách ở khu Ginza ở Ðông Kinh (Tokyo), nửa đường gặp mấy người sinh viên Nhật, bạn của thầy Thiên Ân. Có một cô sinh viên hỏi nhỏ Thầy Thiên Ân một câu, rồi lấy ở trong sắc ra một bông hoa cẩm chướng màu trắng cài vào khuy áo tràng của tôi. Tôi lạ lùng, bỡ ngỡ, không biết cô làm gì, nhưng không dám hỏi, cố giữ vẻ tự nhiên, nghĩ rằng có một tục lệ chi đó. Sau khi họ nói chuyện xong, chúng tôi vào nhà sách, thầy Thiên Ân mới giảng cho tôi biết đó là Ngày Mẹ, theo tục Tây phương. Nếu anh còn mẹ, anh sẽ được cài một bông hoa màu hồng trên áo, và anh sẽ tự hào được còn mẹ. Còn nếu anh mất mẹ, anh sẽ được cài trên áo một bông hoa trắng..."
09/05/2011(Xem: 20180)
Bài giảng cuối cùng, Câu chuyện xúc động về Giáo sư Randy --Cuốn sách mà bạn sắp đọc đây là 53 ngày sau đó nữa, là cách GS Randy Pausch tiếp tục những gì ông đã bắt đầu trên giảng đường hôm ấy, với sự giúp đỡ của nhà báo Jeffrey Zaslow. Hằng ngày vẫn đạp xe để tập luyện, trong 53 lần đạp xe như vậy ông đã trò chuyện với Jeffrey Zaslow qua điện thoại di động. Zaslow đã chuyển những câu chuyện thành cuốn sách này. Ngày 8-4-2008, sách được phát hành tại Mỹ. Hơn ba tháng sau, ngày 25-7-2008, gs Randy Pausch qua đời.
07/05/2011(Xem: 19513)
Tác giả Tâm Diệu, là cựu sinh viên của Viện Đại Học Vạn Hạnh, đã gửiđến cho tôi tập sách Quan Điểm Về Ăn Chay Của Đạo Phật.Nội dung chính xoáy quanh những điểm dị biệt trong vấn đề ănchay theo quan điểm của hai truyền thống Phật giáo Nguyên thủyvà Đại thừa phát triển ngang qua một số kinh điển Phật giáo.Tác giả đã nêu bật được tính chất chung Từ bi và TríTuệ của Đạo Phật trong vấn đề này. Tuy nhiên, vẫn còn mộtvài điểm trong đó chúng tôi nghĩ rằng cần phải có thờigian để làm sáng tỏ.
06/05/2011(Xem: 6784)
Như ai cũng biết, chúng ta sinh ra đời để sống và làm việc như bao nhiêu người trên thế gian này. Đó là ăn uống, ngủ nghỉ, rồi lớn lên lấy vợ lấy chồng, đi làm kiếm tiền nuôi bản thân, gia đình và đóng góp lợi ích xã hội, đến khi lớn tuổi về hưu thì già bệnh rồi chết. Đó là nói những người làm việc nhà nước có chính sách chế độ lương hưu. Còn những người tự làm tự sống, không làm việc nhà nước thì họ phải bươn chải đến khi không còn khả năng làm việc nữa mới thôi. Ai có phước thì được con cái chăm sóc, giúp đỡ, nuôi dưỡng khoảng đời còn lại.
04/05/2011(Xem: 7942)
Sống theo đúng năm giới thì sống thọ: Ðó là lời Ðức Phật dạy, mà cũng là một Chân lý được các bậc minh triết phương Ðông khẳng định.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]