Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tự Hào Là Con Của Phật Với Nền Tảng Đạo Hiếu Cao Vời

29/08/202008:22(Xem: 7712)
Tự Hào Là Con Của Phật Với Nền Tảng Đạo Hiếu Cao Vời

TỰ HÀO LÀ CON CỦA PHẬT
VỚI NỀN TẢNG ĐẠO HIẾU CAO VỜI

            Trên lộ trình tu học, tìm hiểu Phật pháp, và tự đặt mình vào cương vị một người con Phật, đôi khi sự tự hào không chỉ hỗ trợ tinh thần vững tiến mà còn giúp thêm cho ý chí hanh thông, vượt qua nhiều chướng duyên, trong lý tưởng mình đã chọn. Trong thời đại bùng nổ thông tin đa chiều như hiện nay, kiến thức và sự tự hào ấy được chắp thêm nhiều đôi cánh thêm bay cao, bay xa.

                Đến với Phật đạo trong truyền thống của gia đình, không bằng những nhân duyên ngoại cảnh đưa đầy. Đôi khi ngoảnh lại, bằng những kiến thức được dung nạp trong quá trình tiếp cận và tu học, niềm tự hào như được nhân lên gấp bội , ít nhất qua lăng kính Phật giáo là một tôn giáo, gia đình và mình đã chọn không sai, không lỗi đạo với quê hương và đạo pháp. Rất nhiều điều như thế mà gia đình, bản thân và các bạn hữu chung quanh đều cảm nhận được như thế qua từng bài học, từng sự kiện xã hội nhận thức được. Không phải ngẫu nhiên mà giới nghiên cứu lịch sử Phật giáo hay nhắc đến câu nói của nhà bác học vật lý Albert Einstein ( 1879 – 1955 ) «   Nếu có một tôn giáo đáp ứng được những nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không đòi hỏi phải xét lại mình để cập nhật với những khám phá gần đây của khoa học. Phật giáo không cần từ bỏ quan điểm của mình để đi theo khoa học, vì nó bao gồm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học »( If there is any rehigion that would cope with modem scientific Scientific needs,it would be Buddhism. Buddhism riqires no revisiontokeep it up to date withrecent scientific fidings. Buddhism needs nosurrender its view to science, because it embraces science as well as goes beyond science) – nguồn :”Quan điểm của Albert Einstein về Đạo Phật- tân vật lý và vũ trụ luận”- Chương trình “Mỗi ngày một cuốn sách” của VTV1.

Và, như chúng ta đã biết và đã thấy. Từ trong lịch sử hai ngàn năm có mặt trên mãnh đất này, từ trong nếp sống cộng đồng, quan điểm sống và để sống; cho đến từng câu nói, câu ca dao của dân gian.v..v… Phật giáo đã ghi đậm dấu ấn , tồn tại như nào . Những thành quả đó Phật giáo không tự “sáng tác “ ra để tự ca ngợi (giới bình dân thì xác đáng hơn khi chỉ định : tự sướng! ) hay để chứng minh sự có mặt và đồng hành với dân tộc; mà tự nơi cuộc sống ấy phản hồi những dư âm đẹp dành riêng cho Phật giáo. Nhìn chung quanh dễ thấy ngay người ta đã chật vật, xoay sở trăm chiều để đổi mới, để chỉnh sửa, để bổ sung v..v… cho phù hợp với cuộc sống, cho phù hợp với xã hội văn minh để không phải mang tai tiếng sai trái với đà phát triển của thời đại khoa học vũ trụ; mới thấy giá trị chân lý bất di bất dịch của Phật giáo tuyệt vời như thế nào.

           Với quyển sách nhỏ bỏ túi “ Để trở thành một Phật tử”, chỉ với 60 câu hỏi và đáp ngắn gọn, tác giả- cố Hòa thượng Thích Trí Thủ ( 1909 – 1984 ) đã có nói đến điều này rất ý nhị nhưng sâu sắc qua câu hỏi đáp số 7 và số 8 như sau :

Hỏi :làm lành lánh dữ lẫn những điều mà bất luận tôn giáo hay học thuyết nào cũng dạy, đâu có riêng gì Phật giáo?

Đáp: Vâng, đúng thế, Nhưng nói là một việc, còn có thực hành đúng như lời nói được hay không, lại là một việc khác. Đó là chưa nói đếm việc làm lành, lánh dữ ấy có hợp lý hay không, vì nếu người đế xướng lên một lý thuyết mà chưa phải là một đấng giác ngộ chân lý thì lý thuyết ấy khó mà hoàn toàn được.

Hỏi: bằng chứng đâu để biết lý thuyết đúng và thực hành cũng đúng như lý thuyết?

Đáp :Cứ xem đời sống lịch sử của vị Tổ sáng lập Tôn giáo và lịch sử truyền bá của Tôn giáo ấy thì biết.

            Trong kho tàng Tam Tạng Kinh Điển với vô vàn những bài học, những lời dạy của Đức Phật, nói theo ngôn ngữ của y thuật, tất cả những vấn đề đưa ra luôn có đầy đủ yếu tố của một Y Vương, lập trình vững chắc, chỉ định rõ ràng; Khám bệnhĐịnh bệnh và phương pháp chữa bệnh. Lấy bài học đầu tiên của những bước chân hoằng hóa đầu tiên của Đức Phật là Tứ Diệu Đế, Khổ đế - Tập đế - Diệt đếĐạo đế. Đây là bài học tiêu biểu nhất của nhận định vừa nêu, để Phật giáo bước lên trên và ra khỏi thói thường của sự ỷ lại phép mầu đơn giản và cầu xin tiêu cực, trong khi đó lại không để lại bài học khả dĩ nào cho chính người bệnh.

Chỉ riêng vấn đề Hiếu đạo thôi. Một chữ Hiếu thôi, đức Phật cũng tốn khá nhiều phương tiện và tùy thuận mỗi nghiệp duyên mà giàng giải cho thế nhân, cho các cõi trời – người tận tường. tại sao phải Hiếu, và phải báo Hiếu như thế nào? Chữ Hiếu trong Phật giáo không phải là một khẩu hiệu nghèo nàn , đứng biệt lập để biểu hiện đó là chân lý “cho có” để làm an tâm tín đồ . Chữ Hiếu trong Phật giáo còn là một chỉ định mang tính tôn xưng cao cả , tương đồng và phù hợp với đạo lý Phương Đông ( Tam Giáo Đồng Nguyên ) để thế nhân không ngần ngại xác định : Đạo Phật là đạo Hiếu ! Điều đó là hẳn nhiên. Không hẳn nhiên sao được khi quả vị cao nhất là Tâm Phật cũng được đem ra ví sánh với công đức Mẹ Cha ( Tâm Hiếu là Tâm Phật, hạnh Hiếu là hạnh Phật - Gặp thời không có Phật, thờ Cha Mẹ tức thờ Phật – Kinh Đại Tập). Thậm chí trong một hoàn cảnh bức bối, không lối thoát nào đó, người ta cũng có thể nương theo câu hát cổ nhạc “ Tu đâu cho bằng tu nhà/ Thờ Cha Kính mẹ hơn là đi tu” của cố soạn giả Viễn Châu ( trong bài “Tu là Cội Phúc “). Nhân tiện đây xin được khẳng định lại , đó là câu hát của cố soạn giã Viễn Châu chứ không phải ca dao hay truyền khẩu như nhiều người vẫn nhầm tưởng, vì như đã thưa, câu ca đó chỉ có thể ứng dụng cho một hoàn cảnh nhân vật trong bài hát, chứ thật ra nội hàm vẫn chưa đúng lắm và còn khoảng cách rất xa với Phật pháp. Phật giáo vượt lên trên lăng kính tôn giáo một cách cao cả nhưng rất trần gian như thế mà chắc rằng chưa thấy có ở một tôn giáo khác.

Ảnh 1-Trời Đao Lợi 2
Ảnh 2 -Thuyết pháp_cho_vua_tinh_phan_ đẹp
Ảnh 3 - mahapajapati-gotami - ma ha ba Xà ba đề

                   Khi Đức Phật nói về chữ Hiếu, ắt hẳn cuộc đời Ngài cũng như trong vô lượng tiên kiếp hẳn đã thể hiện nét tiểu biểu đó qua rất nhiều hình tướng, trạng thái. Ngay trong kiếp sinh tử luân hồi cuối cùng làm con của Thánh Mẫu Ma Da, Ngài vẫn với tâm từ đại Hiếu ấy hành xử rất đúng mực. Khi thành đạo quả vô thượng rồi Ngài vẫn mang tâm từ đại Hiếu ấy vào cõi trời Đao Lợi để thuyết giảng cho Thánh Mẫu hầu làm tròn một bổn phận của thế gian (Phật thăng Đao Lợi vị mẫu thuyết pháp kinh )( Ảnh 1- 2 ) . Hay như Ngài đã khởi thân vượt ngàn dặm xa, trở về hoàng cung thăm lại phụ thân, và khi phụ thân qua đời Ngài đẽ ghé một bờ vai giải thoát của mình khiêng chiếc quan tài đến nơi trà tỳ rất tròn đạo nghĩa ( Ảnh 3 ). Không chỉ bấy nhiêu đó thôi mà còn một hình ảnh xúc động khác nữa khi Ngài cũng vì tâm Từ Đại Hiếu ấy chấp nhận cho nền chánh pháp sớm mạt độ trước 500 năm để thu nhận bà Di Mẫu Kiều Đàm, người đã từng bồng ẳm, nuôi nấng Thái Tử tất Đạt Đa khi mới vừa 7 ngày tuổi cho đến lúc lên lưng ngựa kiền Trắc, cùng Xa Nặc lướt qua mấy nẻo bụi hồng tím cầu chân lý, cùng hàng trăm vị khác vào tăng đoàn tu theo Ngài. Chữ Hiếu đối với Đức Phật to lớn đến dường ấy . Tâm Từ Đại Hiếu đó còn được thể hiện qua hàng đại đệ tử, đồ chúng của Ngài lúc còn hiện bày sinh tướng hay khi đã nhập diệt cho đến tận ngày nay.

Khi đức Phật nói về chữ Hiếu. Như đã nói, đó không phải là khẩu hiệu mỏng manh chỉ để trang điểm làm an lòng tín đồ, mà là một phương thức sống động và còn là trách nhiệm của một người đệ tử Phật. Đối với người sơ cơ hay kẻ mới học Phật sẽ dễ dàng tìm thấy trong Kinh Vu Lan Bồn hay Kinh Báo Hiếu. Qua đó, Đức Phật đã dạy cho chúng ta biết thế nào là Hiếu, làm sao phải Báo Hiếu, rất rõ ràng. Với những ai có điều kiện tìm hiểu sâu hơn thì ngoài hai bộ kinh thông dụng ấy còn có nhiều bộ kinh khác đức Phật nói về chữ Hiếu trong suốt hơn 45 thuyết hóa của Ngài. Đại để đó là các bộ kinh như : Kinh Đại tập, Kinh Nhẫn Nhục, Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Kinh Tập Bảo Tạng, Kinh Tăng Chi II A, Kinh Trường A Hàm, Kinh Trung Bộ, Kinh Tương Ưng, Chi Bộ Kinh, Kinh Suttanipata, Chính 2/601, Cảnh Sách, Hạnh Phúc Kinh, Vạn 35/154].v…v…Có những bài kinh với nhiều câu nói rất hay được nhiều người nhắc đến như :

  • Phạm Thiên, Này các Tỳ kheo, là đồng nghĩa với mẹ cha.Các đạo sư ngày xưa. Này các tỳ Kheo, là đồng nghĩa với mẹ cha. Đáng được cúng dường, này các Tỳ kheo, là đồng nghĩa với mẹ cha. (Tăng Chi II A )
  • Hờ trời đất quỷ thần, không bằng có hiếu với cha mẹ, vì cha mẹ là vị thần minh cao nhất trong các thần minh ( Kinh Tứ Thập Nhị Chương ).
  • Làm con đới với cha mẹ, khi đem vật dụng cho cha mẹ, dù nhỏ đi nữa thì được phước vô lượng. Khi làm điều bất thiện đối với cha mẹ, dù chỉ một chút thì tội cũng vô lượng.(Kinh Bảo Tạng ).
  • Phụng dưỡng cha mẹ là vận may tối thượng ( hạnh Phúc Kinh )
  • Các thầy tỳ Kheo, có hai vị Phật sống đang sống trong nhà các ngươi, đó là cha và mẹ (Kinh Vạn 35/154A ).
  • Các người nghĩ như thế nào, này các Tỳ Kheo? Cái gì là nhiều hơn? Sữa mẹ mà các ngươi đã uống, trong khi các ngươi lưu chuyển luân hồi trong một thời gian dài, hay là nước trong bốn biển ? Cái này nhiều hơn, này các Tỳ Kheo, tức là sữa mẹ các ngươi đã uống trong khi các ngươi lưu chuyển luân hồi trong một thời gian dài, chớ không phải nước trong bốn biển ( Kinh Trường A Hàm ).
  • Người nào theo thường pháp/ Nuôi dưỡng mẹ và cha/ Chính do công hạnh này/ Nhờ vậy, bậc Hiền Thánh/Trong đời này tán thán/ Sau khi chết được sanh/Hưởng an lạc chư thiên ( Kinh Tương Ưng).

               Trên đây chì là tiêu biểu vài câu trích dẫn để bổ sung cho chủ đề bài viết trong rất nhiều đề tài về chữ Hiếu Đức Phật thuyết giảng trước sau trong quá trình thuyết giáo. Nhưng cũng sẽ không thừa khi xin được trích dẫn câu kinh nói về chữ Hiếu được xem là kinh điển nhất khi tìm hiểu Phật pháp, để nhân đó người xin nói thêm một chi tiết liên quan :

Điều thiện tối cao không gì hơn Hiếu

Điều ác tột cùng không gì hơn bất Hiếu

( Kinh Nhẫn Nhục )
14 điều răn của Phật

          Trong phần cuối bài viết này , người viết trích dẫn câu kinh nổi tiếng trên vì chợt nhớ đến một chi tiết về những cái «  Nhất » trong « mười bốn điều răn của Phật » ( tạm gọi là tấm liễn ) ( Ảnh 4 ) -do cố Hòa thượng Kim Cương Tử ( 1914 – 2001 ) sưu tập và được in, phát hành rộng rải trong các nhà sách cuối thập niên 80. Người viết đã tìm mua được trong nhà sách Fahasa ở đường Nguyễn Huệ Quận 1 năm 1988. Nói đến thời gian phát hành ai cũng hiểu và thông cảm được cho từ «  điều răn của Phật » được dùng làm tựa đề. Và câu thứ 6 trong 14 câu ấy chính là «  Tội lỗi lớn nhất của đời người là bất hiếu ». Trong giai đoạn vừa mở cửa, nhìn thấy những gì liên qua đến Phật giáo ai cũng rất vui mừng và bỏ qua những sai sót nhỏ. Nhưng sự việc sẽ không nhỏ chút nào nếu đặt vào thời gian hiện tại khi chúng ta đã có đầy đủ các ba bệ và hệ thống tổ chức Giáo Hội PGVN chặt chẻ. Khi đó, tấm liễn 14 điều Răn Của Phật này gây sốt thật sự và ai cũng muốn tìm mua cho bằng được để treo ở trong nhà mình vì ý nghĩa quá súc tích và sâu sắc. Tất nhiên lòng tự hào của mình cũng hân hoan theo không kém và luôn thầm cảm ơn, ngưỡng mộ chư vị đã có công làm ra bảng chữ như vậy. Khi cơn sốt đang ở cao trào thì có vài ý kiến của các vị từng đi Ấn, đi Đài hay đi Trung nói rằng các vị cũng từng thấy một vài chùa bên các xứ đó có treo những tấm bảng có nội dung tương tự và cho đó là của Trung Quốc ! Rất lạ lá ít nghe ai nói rằng 14 câu « nhất » ấy được chư vị tôn túc uyên thâm Phật học, rút ra từ các lời kinh Phật dạy và đúc kết thành những câu nói mang tính xác quyết, quan trọng nhất của đời người cho hậu thế soi chung . Thí dụ như câu số 6 đã trích «  Tội lỗi lớn nhất của đời người là bất hiếu » phải chăng được các vị chiếc xuất từ trong Kinh Nhẫn Nhục « Điều ác tột cùng không gì hơn bất hiếu » Hoặc từ trong kinh Báo Hiếu – «  Trong năm đại tội định ra/ Bất hiếu thứ nhất thật là trọng thay »? Còn lại những câu khác chắc chắn rằng cũng sẽ không nằm ngoài kinh tạng Phật giáo mà với điều kiện và khả năng của người viết còn hạn chế, chưa thể sưu tầm ra hết được. Nhưng xã hội ngày nay, không kể người có hay không tu học cũng đều rất cần những thông tin như tấm liễn. Những điều tự hào đáng tự hào vì tất cả những gì Phật giáo có và cống hiến cho xã hội là rất thật, rất hữu ích, không cần gượng ép hay áp lực để tạo ra, nhất là cố tạo ra cái mình không có để tồn tại .



Mùa Vu Lan 2564 – 2020

DƯƠNG KINH THÀNH


***

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/10/2014(Xem: 7627)
Mùa Xuân ta lên núi Hăm hở làm sơn ̣̣đồng Bỏ con đường khói bụi Cho sách vở vời trông... Rời mái trường Vạn Hạnh, còn đang lang thang dạy giờ ở các trường Bồ-đề, ngong ngóng một xuất học bỗng du học, tôi bất ngờ bị Sư Bà áp giải lên núi, sau lời phán quyết chắc nịch: “Con phải học một khóa tu Thiền ba năm với Thượng Tọa, xong rồi muốn đi đâu cũng ̣̣được... Còn bây giờ, dứt khoát là…Không!”.
28/10/2014(Xem: 7953)
Có những gì cần phải sửa trong Kinh Phật hay không? Có những gì cần phải cắt bớt khỏi Kinh Phật, hay cần phải bổ túc thêm cho Kinh Phật hay không? Câu trả lời tất nhiên không dễ. Vì người xưa đã nói, nếu chấp vào nghĩa từng chữ một, có thể sẽ hiểu nhầm ý của Phật; nhưng nếu rời kinh một chữ, lại hệt như lời ma nói. Nguyên văn: Y kinh giải nghĩa, tam thế Phật oan; ly kinh nhất tự, tức đồng ma thuyết.
26/10/2014(Xem: 9430)
Gió mùa thu năm nay, trở nên khô khốc, ảnh hưởng bởi nạn hạn hán trầm trọng nhất trong nhiều thập kỷ qua ở xứ này. Nhưng đâu đó trên hành tinh, mưa thu lất phất bay, và gió thu se sắt gợi buồn; cũng có nơi mưa ngập cả các con lộ chính của thành phố lớn để người và xe cộ phải lội bì bõm trong giòng nước ngầu đục. Và chỗ nọ, chỗ kia, làn gió dân chủ, hòa bình, khơi niềm hứng cảm cho sự vươn dậy của ý thức tự do, khai phóng.
24/10/2014(Xem: 15009)
Một kỷ nguyên mới canh tân kỹ thuật đang lan tràn khắp thế giới và đang tiến đến trưởng thành, đó là mạng lưới thông tin toàn cầu internet (world wide web), một hệ thống truyền thông và môi trường học có sức mạnh. Không nên xem Internet chỉ là một phương tiện mới để truyền bá Giáo Pháp với một hình thức mới, mà Internet còn có tiềm năng là một căn cứ cho một cộng đồng Phật Giáo trên mạng (online) cống hiến những giá trị xã hội và tâm linh cho mọi người.
24/10/2014(Xem: 8600)
Chuyện kinh Phật kể rằng, tự ngàn xửa ngàn xưa, hằng hà sa kiếp trước, có con thỏ ngọc nọ thấy bầy đàn đang lúc giá rét cuối đông, chẳng kiếm được chút rau cỏ gì cho nguôi cơn đói bụng ; thỏ nọ liền “hưng khởi đại bi tâm” nhảy vào đám lửa đang cháy rực hồng, tự biến thân mình thành thịt nướng cho bầy đàn ăn đỡ đói. Khi bầy đàn thỏ no nê thì cũng là khi thân thỏ nọ chỉ còn sót lại mấy miểng xương đen. Phật biết đại bi tâm của thỏ từ đầu, bèn nhặt xương thỏ đem về cung quảng, phục sinh và đặt tên cho thỏ là NGỌC THỐ - có nghĩa là Thỏ Ngọc, một sinh thể có đại bi tâm quý như ngọc; thứ ngọc Phật từng nói đến trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Bấy giờ, cuộc đời thỏ ngọc ngày đêm yên ả nơi cung trăng, tự thân sớm hôm trau dồi công dung ngôn hạnh khiến biết bao người chung quanh nâng niu, thương yêu chiều chuộng.
23/10/2014(Xem: 13352)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia. Tuyển tập các bài viết này gồm ba mục đích chính: (i) Xóa bỏ mê tín dị đoan và các tập tục hủ lậu, (ii) Giới thiệu Phật pháp căn bản, giúp người đọc hiểu rõ các giá trị thiết thực của đạo Phật, (iii) Đính chính các ngộ nhận về các khái niệm thầy tu, giải thoát, giá trị trị liệu của thiền và bản chất hạnh phúc trong hiện tại. Dầu được viết trong nhiều thời điểm khác nhau cho nhiều đối tượng độc giả, tác giả chú trọng đến việc giới thiệu về hình thái đạo Phật nguyên chất, xây dựng niềm tin bằng lý trí, giới thiệu đạo Phật từ góc độ ứng dụng trong đời sống, so sánh những điểm dị biệt và sự vượt trội của đạo Phật đối với các truyền thống và tín ngưỡng khác.
23/10/2014(Xem: 8867)
Bằng cách này hay cách khác, Đức Phật luôn gợi nhắc cho chúng ta rằng mỗi người chúng ta đều sở hữu các khả năng và phẩm chất tốt đẹp, cần phải biết vận dụng và phát huy để làm cho cuộc sống trở nên giàu sang hiền thiện, tránh mọi khổ đau và để thực nghiệm hạnh phúc an lạc. Trong bài kinh Nghèo khổ thuộc Tăng Chi Bộ, Ngài đơn cử câu chuyện một người nghèo túng về của cải vật chất nhưng không biết cách nỗ lực khắc phục tình trạng nghèo khó của mình nên phải liên tiếp rơi vào các cảnh ngộ khó khăn để nhắc nhở chúng ta về các tai họa khổ đau mà chúng ta sẽ phải đối diện, nếu không biết nỗ lực nuôi dưỡng và phát huy các phẩm chất đạo đức và trí tuệ của mình.
23/10/2014(Xem: 10398)
Tục lệ, hay những lễ nghi đã trở thành thói quen, là văn hóa được ước định của một dân tộc. Sự hình thành tục lệ thường chịu ảnh hưởng của phong tục tập quán trong dân gian, hoặc do sự thực hành các tín ngưỡng tôn giáo lâu ngày của một cộng đồng. Sau khi truyền vào Trung Quốc, Phật giáo không chỉ đi sâu vào dân gian, hòa nhập với đời sống, từng bước hình thành nên một bộ quy phạm lễ nghi về “hôn táng hỷ khánh” (dựng vợ gả chồng, chôn cất người chết, thể hiện niềm vui, bày tỏ việc mừng); mà còn có tác dụng thay đổi phong tục đối với các thói quen dân gian mang đậm màu sắc mê tín trong các việc như: tổ chức hôn lễ rườm rà; đoán số mệnh dựa trên bát tự(1); miễn cưỡng tổ chức việc vui trong lúc gia đạo đang gặp rắc rối với mong muốn giải trừ vận xui, tà khí, chuyển nguy thành an, gọi là xung hỷ; thực hành tục minh hôn(2); duy trì lối khóc mộ; xem phong thủy…
23/10/2014(Xem: 9801)
Từ Thiện chỉ là Tu Phước, đó là cành lá hoa trái, nhưng Tu Huệ là gốc rễ , có chăm sóc cội gốc thì cây Bồ-Đề mới xanh tươi, đó là Phước Huệ song tu, là Tâm Hạnh của một vị Bồ-Tát, Một vị Phật tương lai, hiện tại phải Hành Bồ-Tát Đạo, Phục vụ chúng sinh là cúng dường Chư Phật, Bồ-Tát Giới thì cũng có Xuất gia và Tại Gia, Người con Phật phải luôn tưởng nhớ đến Tánh Phật vốn sẵn nơi chính Thân Tâm Ngũ Uẩn nầy, Người Tu Phật phải luôn nhìn lại chính mình, nếu hiểu được chính Thân Tâm mình, thì sẽ hiểu được người khác, (Tức Quán một Pháp thông, thì tất cả các Pháp đều thông) Người Giác Ngộ đối với Thân Tâm này, chỉ thấy là như hạt bụi, rời hơi thở rồi thì thiêu đốt thành tro, Muốn giải thoát Luân Hồi Sanh Tử, thì sống chấp nhận trả Nghiệp quá khứ, mà không tạo thêm Nghiệp tương lai, Bằng cách, nếu có người phiền não Ta, hay tức giận Ta, thì liền xin lỗi, đó là chấp nhận trả Nghiệp cũ, mà không tạo thêm nghiệp mới,
22/10/2014(Xem: 8702)
Tôi thường đeo một xâu chuỗi nhỏ ở tay, cũng nhiều năm rồi, như một sở thích, như một thói quen. Nhiều người thấy lạ thường hỏi, mang xâu chuỗi chi vậy? Tu hả? Cầu xin gì hả? Thường thì tôi chỉ cười thay câu trả lời vì cũng hơi rắc rối để giải thích.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]