Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tưởng niệm Cư sĩ Steven D. Goodman, Giáo sư, Dịch giả Kinh điển Phật giáo Tây Tạng

15/08/202018:41(Xem: 6143)
Tưởng niệm Cư sĩ Steven D. Goodman, Giáo sư, Dịch giả Kinh điển Phật giáo Tây Tạng

Tưởng niệm Cư sĩ Steven D. Goodman, Giáo sư, Dịch giả Kinh điển Phật giáo Tây Tạng

(Remembering Steven D. Goodman, author, professor, and translator of Tibetan Buddhist works)

Cư sĩ Steven D. Goodman

Sự từ biệt trần gian Ta bà của Cư sĩ Steven D. Goodman (1946-2020) là vô cùng kính tiếc, một sự mất mát cho việc nghiên cứu Phật giáo Tây Tạng tại phương Tây.

Cư sĩ Steven D. Goodman, Giáo sư, Tác giả và Dịch giả nổi tiếng bởi các tác phẩm kinh điển Phật giáo Tây Tạng, đã an nhiên trút hơi thở cuối cùng tại tư gia và về cõi Phật vào ngày 03 tháng 8 năm 2020, Oaklan, Hoa Kỳ. Hưởng thọ 75 tuổi.

Trong hai thập kỷ qua, Cư sĩ Steven D. Goodman đã giảng dạy tại Viện Nghiên cứu Tích hợp California (California Institute of Integral Studies in San Francisco), San Francisco, Hoa Kỳ, lúc ông từ giã trần gian về cõi Phật là đương nhiệm Giám đốc Nghiên cứu và Chương trình Nghiên cứu về Châu Á và So sánh. Tác phẩm gần đây nhất của ông là “The Buddhist Psychology of Awakening” (Shambhala), được xuất bản vào ngày 21 tháng 7 năm 2020.

Cư sĩ Steven D. Goodman đã đỗ đạt học vị Tiến sĩ tại Viện Nghiên cứu Viễn Đông thuộc Đại học Saskatchewan, Canada, dưới sự hướng dẫn của học giả Phật giáo tiên phong Herbert V. Guenther. Ông đã thuyết trình và giảng dạy triết học Phật giáo và Tôn giáo So sánh tại Đại học California, Berkeley và Santa Barbara, Đại học Rice, Liên minh Thần học Hậu đại học, Viện Nyingma và Viện Naropa, là người nhận được học bổng của Quỹ Rockefeller tại Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa của Đại học Rice cho việc nghiên cứu thơ ca huyền bí Tây Tạng. Ông là thành viên Hội đồng Sáng lập và Chủ tịch của the Buddhist Film Foundation (Quỹ Điện ảnh Phật giáo).

Cư sĩ Steven D. Goodman thường xuyên làm phiên dịch cho chư tôn đức Giáo phẩm Thượng thủ của Phật giáo Tây Tạng bao gồm các Ngài Dzongsar Jamyang Khyentse, Tenzin Wangyal, Bhaka Tulku, Thinley Norbu và Lama Tharchin. Ông là thành viên sáng lập của Ủy ban Công tác cho Dự án “84.000 – Chuyển dịch những Kim ngôn Khẩu ngọc của Đức Phật” (The 84000 Project: Translating The Words of The Buddha), và cố vấn cho Quỹ Khyentse (Khyentse Foundation). Các tác phẩm của ông: Tibetan Buddhism: Reason and Revelation (SUNY Press 1992), đồng biên tập với Ronald M. Davidson, một nguồn để nghiên cứu văn học triết học và tầm nhìn của Tây Tạng, và “Transforming the Causes of Suffering” in Mindfulness in Meaningful Work (Parallax Press 1994).

Ngài Tôn giả Dzongsar Jamyang Khyentse, vị Lạt Ma nổi tiếng, nhà làm phim người Bhutan, người sáng lập Quỹ Khyentse, cho biết: “Cư sĩ Steven D. Goodman có tất cả những kiến thức cơ bản và thành tựu học thuật, và ông cũng là một trong những vị học giả rất hiếm có cái nhìn trực tiếp về Phật giáo để xem nó thực sự như thế nào. Và vì vậy, ông đã dám vượt qua cả chủ quan và khách quan. Việc Cư sĩ Steven D. Goodman đã từ giã trần gian là một mất mát lớn đối với Phật giáo tại Hoa Kỳ, và đặc biệt là đối với việc Nghiên cứu Phật giáo Tây Tạng tại phương Tây”.

Là con trai yêu quý của một vị Tiến sĩ Bác sĩ nổi tiếng và nhà giáo dục sức khỏe cộng đồng (UCLA), cụ ông Raymond D. Goodman đã từ trần vào ngày 19 tháng 2 hưởng thọ 97 tuổi, với lĩnh vực sức khỏe cộng đồng với niềm đam mê bền bỉ và sự cống hiến to lớn. Cố Tiến sĩ Bsc sĩ Raymond D. Goodman đã giúp cải thiện các dịch vụ y tế của California, Hoa Kỳ, phát triển các hệ thống mới để giám sát chất lượng chăm sóc sức khỏe trong y học người lớn và nhi khoa, đồng thời đặt ra các tiêu chuẩn cho dịch vụ chăm sóc ngoại trú HMO của bệnh nhân Medi-Cal, và hiền mẫu là cụ bà Betty Jane Zoerheide, Cư sĩ Steven D. Goodman trưởng thành tại Beverly Hill, một thành phố nằm ở phía tây của Quận Los Angeles, California, Hoa Kỳ và theo học tại trường Trung học Ngoại Trú Fairfax Christian School, quận Fairfax là một quận thuộc tiểu bang Virginia, Hoa Kỳ, trước khi đổ đạt học vị Cử nhân (B.A.) tại Viện Đại học California-Berkeley (University of California, Berkeley; UC Berkeley). Ông tiếp tục đổ đạt hậu đại học Thạc sĩ tại Đại học Saskatchewan (University of Saskatchewan), phía đông sông Saskatchewan, tại trung tâm của Saskatoon, Canada, gần tám năm sinh sống tại Saskatoon, Canada. Ông cưới nàng Joan Marie Wood làm vợ hiền tại đây và cuối cùng họ định cư tại Thành phố Oakland thuộc Bang California , Hoa Kỳ vào năm 1983.

Được biết đến trong số các sinh viên và đồng nghiệp của mình, bởi Cư sĩ Steven D. Goodman có tài ứng xử thông minh, lưu loát trong khẩu ngữ và năng khiếu hài hướt tinh tế. Trong những năm sống tại Đại học California-Berkeley (UC Berkeley), ông là thành viên thường xuyên của một nhóm nhỏ có chung sở thích tự xưng mình là “R.G.E.” (Radical Action Group from Eating-Nhóm Hành động Cấp tiến Nhóm từ Ẩm thực). Nó được khai sinh vào mùa xuân năm 1968 trong “Tuần lễ Ngừng Dự thảo” (Stop the Draft Week). Họ sẽ cùng nhau ăn uống hằng đêm, sau khi xem Bản tin buổi tối của CBS do nhà báo phát thanh người Mỹ Walter Cronkite (1916-2009), thường được gọi là “người đàn ông đáng tin cậy nhất ở Mỹ” sau khi được nêu tên trong một cuộc thăm dò ý kiến.

Cư sĩ Steven D. Goodman thường tổ chức các buổi hội thảo về chấn thương “dấu vết” (shanow), kẻ lừa gạt và sự Thực hành liên quan đến Phật giáo Tây Tạng. Trong một cuộc phỏng vấn, Cư sĩ Steven D. Goodman nói rằng: “Tôi đã từng giảng dạy với vị Đạo sư Dzogchen, Phật giáo Kim Cương thừa, Tôn giả Lama Tharchin (1936-2013), và sau khi mọi người đã ổn định, tôi nhấn mạnh rằng tất cả chúng ta đều có Phật tính. Và điều này có nghĩa là tại một thời điểm nào đó, tất cả chúng ta sẽ trở nên hoàn toàn đại giác ngộ như Đức Phật”.

Nói xong, Cư sĩ Steven D. Goodman ngừng giây lát cho đại chúng im lặng trong chánh niệm và nói thêm rằng: “Quý vị sẳn sàng chưa? Có thể vào giữa đêm nay, quý vị sẽ trở nên hoàn toàn đại giác ngộ như Đức Phật. Quý vị đã sẳn sàng chưa? Nó có thể rất bất tiện. Còn về tất cả kế hoạch quý vị đã thiết lập đến nơi quý vị sau buổi chia sẻ Phật pháp thì sao? Quý vị đang phụ thuộc vào việc không giác ngộ, phải không? Có lẽ quý vị không nên lập nhiều kế hoạch như thế?”.

Cuộc phỏng vấn Cư sĩ Steven D. Goodman: Widom Crazy bởi các biên tập viên của Inquiring Mind

Cư sĩ Steven D. Goodman: Trong cuộc hội thảo của tôi tại Viện Nghiên cứu Tích hợp California (California Institute of Integral Studies, CIIS), “Tibetan Buddhist Practices and the Trickster” (Kẻ lừa gạt và Thực hành Phật giáo Tây Tạng), tôi giới thiệu khái niệm “crazy wisdom” (Trí tuệ mê cuồng), một cụm từ có tên trên bản đồ phần lớn là nhờ ngài Tôn giả Chögyam Trungpa, nhân vật chính trong việc truyền bá Phật giáo Tây Tạng sang phương Tây, thành lập Đại học Vajradhatu và Naropa, thiết lập phương pháp Huấn luyện Shambhala, vị Thiền sư Phật giáo Tây Tạng nổi tiếng khắp thế giới. Trong tiếng Tây Tạng, các từ này là yeshe cholwa, yeshe có nghĩa là “Trí tuệ nguyên sơ” (wisdom that’s always been there) của chúng ta và cholwa có nghĩa là “nếu không thể kiềm chế được sự ngông cuồng” (wild or uncontainable). Tôn giả Chögyam Trungpa nói rằng quý vị cũng có thể nói “Trí tuệ mê cuồng” (crazy wisdom). Nó đề cập đến một người dường như say sưa với một nguồn năng lượng vô tận, và thương yêu tuyệt vời. Cái mà chúng ta gọi là mê cuồng chỉ là mê cuồng từ quan điểm của bản ngã, tập quán, thói quen. Sự mê cuồng thực sự là sự tận hưởng tần số cao hơn. Bên cạnh đó, những bậc thầy tâm linh vĩ đại, các bậc đại thành tựu giả, đừng quyết định trở nên mê cuồng. “Trí tuệ mê cuồng” (crazy wisdom) là tự nhiên, không cần nỗ lực, không bị điều khiển bởi cỗ máy hy vọng và sợ hãi của bản ngã.

Chủ tịch Hội đồng Quản trị công ty Shambhala Publications Nikko Odiseos kể rằng: “Tôi có duyên gặp Cư sĩ Steven D. Goodman lần đầu tiên vào những thập niên 1990 khi vị Đạo sự vĩ đại của truyền thống Cổ Mật, Ngài Tôn giả Kyabje Thinley Norbu (1931-2011) giới thiệu với chúng tôi và nói với tôi, ‘Cư sĩ Steven D. Goodman không phải là một học giả bình thường, ông ấy rất đặc biệt’ và tiếp tục tán dương sự chân thành của ông ấy. Sự kết nối với truyền thống và thực tiễn. Con đường của chúng tôi thường đi qua trong những thập kỷ sau đó, bởi rất nhiều đạo hữu của chúng tôi đã học với Giáo sư Steven D. Goodman tại Viện Nghiên cứu Tích hợp California, Hoa Kỳ, nơi ông đã tác động ảnh hưởng đến mê hoặc một thế hệ học giả và hành giả Phật giáo. Ông luôn mang đến sự ấm áp, tươi vui, hào phóng và rất bình dị khi gần gũi với mọi người”. (Shambhala Publications)

Thích Vân Phong biên dịch

(Nguồn: berkeleyside)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/11/2014(Xem: 6596)
Đêm hôm đó là một đêm trời mưa. Mưa dai ẳng như tình quê xứ Huế, nhưng không phải Huế. Mưa đang rơi trong trời đêm Thụy Sĩ. Càng về khuya, mưa rơi càng nặng hạt. Vạn vật im lìm đứng lặng trong đêm. Thời gian nhẹ trôi. Không gian yên vắng. Tất cả đang chìm vào tĩnh mịch giữa đêm khuya. Mọi nhà hàng xóm đều tắt đèn yên nghỉ. Không còn một tiếng động dù nhỏ nào, ngoài tiếng mưa rơi rả rích lẫn với tiếng tâm tình rù rì của anh em Gia Đình Phật Tử Trí Thủ chúng tôi ngồi quây quần bên nhau trên căn gác xếp nhà anh Khá.
31/10/2014(Xem: 7071)
Sáng nào tôi cũng đi thiền nhặt rác 2 - 3 vòng quanh công viên Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy. Vừa thong thả bước những bước thảnh thơi, không vội vàng, không suy tư vừa nhặt rác, nếu thấy có. Chân nhẹ bước, tay lượm rác, tay cầm rác, mũi hít thở không khí trong lành buổi ban mai. Hà Nội mùa thu đẹp lắm. Càng ngày tôi càng yêu mùa thu Hà Nội. Mùi hoa sữa vẫn thơm đầu ngày mới. Ánh mặt trời dần rạng tỏ sớm mai. Tôi mê ngắm mặt trời mọc và lặn từ bao giờ chẳng biết. Dù ở đâu cũng thấy bình minh và hoàng hôn đẹp vô cùng. Bagan hay Aytthaya. Siem Riep hay Ngũ Hành Sơn. Mandalay hay Chieng Mai. Hồ Tây hay Bồ Đề Đạo Tràng. Bà Nà hay Lâm Tỳ Ni. Đẹp vô cùng và thấy tâm an lạc và thảnh thơi đến khó tả.
31/10/2014(Xem: 8166)
Hồi Thầy mới vào chùa năm 16 tuổi, trên phương diện danh từ thì mình đã được gọi Bụt Sakyamuni là Bổn Sư (Nam Mô Đức Bổn Sư Bụt Sakyamuni). Bổn Sư (tiếng Bắc là Bản Sư) có nghĩa là Thầy tôi. Nhưng kỳ thực đức Bụt mà mình được gặp khi mới vô chùa không phải là một vị Thầy đích thực mà là một nhân vật rất huyền thoại, đầy phép lạ, đầy thần thông, rất xa cách với con người. Mình không được gặp Bụt của đạo Bụt nguyên thủy mà cũng không được gặp Bụt của đạo Bụt tiểu thừa. Hình ảnh Bụt nguyên thủy là một vị Thầy ăn mặc rất đơn sơ, trải bồ đoàn tọa cụ ngồi trên đất, ngồi pháp đàm, nói pháp thoại và ăn cơm với các Thầy. Mình không gặp được hình ảnh đó, vì vậy trên phương diện danh từ mình được gọi là Thầy tôi nhưng kỳ thực giữa mình với đức Sakyamuni có một khoảng cách rất lớn. Đó là một nhân vật hoàn toàn thần thoại, đầy phép lạ.
31/10/2014(Xem: 7932)
Pháp môn mà mình nói tới đó là pháp môn xây dựng tăng thân, được gọi tắt làdựng tăng. Đó cũng là công trình của Bụt, đó là sự nghiệp của Bụt. Ngay sau khi thành đạo, Bụt đã biết rất rõ rằng nếu không xây dựng được một tăng thân thì mình không thể nào thực hiện được sự nghiệp của một vị Bụt. Vì vậy Ngài đã để ra rất nhiều thì giờ và công sức để xây dựng một tăng thân. Ngay trong năm đầu sau khi thành đạo, Bụt đã xây dựng một tăng thân xuất gia gồm có 1250 vị, và tăng thân này đầu tiên xuất hiện tại một rừng kè ở ngoại ô thành phố Rajagraha. Năm Ngài 80 tuổi, Vua Prasenajit (Ba Tư Nặc) có nói một câu rất hay để ca ngợi Bụt về công trình xây dựng tăng thân ấy. Vua nói: Bạch đức Thế Tôn, mỗi lần con thấy tăng thân của đức Thế Tôn là con lại có niềm tin nhiều hơn ở nơi chính đức Thế Tôn.
31/10/2014(Xem: 7357)
Mùa Xuân ta lên núi Hăm hở làm sơn ̣̣đồng Bỏ con đường khói bụi Cho sách vở vời trông... Rời mái trường Vạn Hạnh, còn đang lang thang dạy giờ ở các trường Bồ-đề, ngong ngóng một xuất học bỗng du học, tôi bất ngờ bị Sư Bà áp giải lên núi, sau lời phán quyết chắc nịch: “Con phải học một khóa tu Thiền ba năm với Thượng Tọa, xong rồi muốn đi đâu cũng ̣̣được... Còn bây giờ, dứt khoát là…Không!”.
28/10/2014(Xem: 7730)
Có những gì cần phải sửa trong Kinh Phật hay không? Có những gì cần phải cắt bớt khỏi Kinh Phật, hay cần phải bổ túc thêm cho Kinh Phật hay không? Câu trả lời tất nhiên không dễ. Vì người xưa đã nói, nếu chấp vào nghĩa từng chữ một, có thể sẽ hiểu nhầm ý của Phật; nhưng nếu rời kinh một chữ, lại hệt như lời ma nói. Nguyên văn: Y kinh giải nghĩa, tam thế Phật oan; ly kinh nhất tự, tức đồng ma thuyết.
26/10/2014(Xem: 9255)
Gió mùa thu năm nay, trở nên khô khốc, ảnh hưởng bởi nạn hạn hán trầm trọng nhất trong nhiều thập kỷ qua ở xứ này. Nhưng đâu đó trên hành tinh, mưa thu lất phất bay, và gió thu se sắt gợi buồn; cũng có nơi mưa ngập cả các con lộ chính của thành phố lớn để người và xe cộ phải lội bì bõm trong giòng nước ngầu đục. Và chỗ nọ, chỗ kia, làn gió dân chủ, hòa bình, khơi niềm hứng cảm cho sự vươn dậy của ý thức tự do, khai phóng.
24/10/2014(Xem: 14441)
Một kỷ nguyên mới canh tân kỹ thuật đang lan tràn khắp thế giới và đang tiến đến trưởng thành, đó là mạng lưới thông tin toàn cầu internet (world wide web), một hệ thống truyền thông và môi trường học có sức mạnh. Không nên xem Internet chỉ là một phương tiện mới để truyền bá Giáo Pháp với một hình thức mới, mà Internet còn có tiềm năng là một căn cứ cho một cộng đồng Phật Giáo trên mạng (online) cống hiến những giá trị xã hội và tâm linh cho mọi người.
24/10/2014(Xem: 8364)
Chuyện kinh Phật kể rằng, tự ngàn xửa ngàn xưa, hằng hà sa kiếp trước, có con thỏ ngọc nọ thấy bầy đàn đang lúc giá rét cuối đông, chẳng kiếm được chút rau cỏ gì cho nguôi cơn đói bụng ; thỏ nọ liền “hưng khởi đại bi tâm” nhảy vào đám lửa đang cháy rực hồng, tự biến thân mình thành thịt nướng cho bầy đàn ăn đỡ đói. Khi bầy đàn thỏ no nê thì cũng là khi thân thỏ nọ chỉ còn sót lại mấy miểng xương đen. Phật biết đại bi tâm của thỏ từ đầu, bèn nhặt xương thỏ đem về cung quảng, phục sinh và đặt tên cho thỏ là NGỌC THỐ - có nghĩa là Thỏ Ngọc, một sinh thể có đại bi tâm quý như ngọc; thứ ngọc Phật từng nói đến trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Bấy giờ, cuộc đời thỏ ngọc ngày đêm yên ả nơi cung trăng, tự thân sớm hôm trau dồi công dung ngôn hạnh khiến biết bao người chung quanh nâng niu, thương yêu chiều chuộng.
23/10/2014(Xem: 13006)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia. Tuyển tập các bài viết này gồm ba mục đích chính: (i) Xóa bỏ mê tín dị đoan và các tập tục hủ lậu, (ii) Giới thiệu Phật pháp căn bản, giúp người đọc hiểu rõ các giá trị thiết thực của đạo Phật, (iii) Đính chính các ngộ nhận về các khái niệm thầy tu, giải thoát, giá trị trị liệu của thiền và bản chất hạnh phúc trong hiện tại. Dầu được viết trong nhiều thời điểm khác nhau cho nhiều đối tượng độc giả, tác giả chú trọng đến việc giới thiệu về hình thái đạo Phật nguyên chất, xây dựng niềm tin bằng lý trí, giới thiệu đạo Phật từ góc độ ứng dụng trong đời sống, so sánh những điểm dị biệt và sự vượt trội của đạo Phật đối với các truyền thống và tín ngưỡng khác.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]