Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Giáo dục và thông tin

10/04/201318:34(Xem: 6792)
Giáo dục và thông tin

Tuyển tập bài viết về Vu Lan - 2009

Giáo dục và thông tin

Chuyển ngữ: HT Thích Trí Chơn

Nguồn: Nguyên tác: Đức Đạt Lai Lạt Ma Trích từ cuốn sách: "Ethics for the New Millennium"

Muốn sống một cuộc sống đạo đức, trước tiên chúng ta nên nghĩ đến nhu cầu của người khác nhằm đáp ứng hạnh phúc của họ, có nhiều liên quan đến xã hội ngày nay. Nếu chúng ta tu sửa nội tâm, tự loại bỏ các ý nghĩ và tình cảm tiêu cực để xây dựng, chúng ta có thể thay đổi toàn thế giới. Chúng ta có nhiều công cụ mạnh mẽ để xây dựng một xã hội đạo đức và hoà bình. Tuy nhiên, một vài khí cụ đó chưa được sử dụng đúng mức. Về điểm này, tôi muốn chia xẻ vài ý kiến về các lãnh vực nào chúng ta có thể bắt đầu một cuộc cách mạng tinh thần của lòng nhân đạo, tâm từ bi, sự nhẫn nhục, bao dung, tha thứ và khiêm tốn.
Khi chúng ta dấn thân vì lý tưởng giúp cho tất cả mọi người, tiếp theo đó cần thông báo các chính sách về xã hội và chính trị của chúng ta. Tôi nói vậy không phải giả định rằng chúng ta có thể giải quyết mọi vấn đề xã hội trong một đêm. Đúng hơn, tôi tin rằng trừ phi một ý thức rộng rãi về tâm từ bi mà tôi đã kêu gọi nơi các độc giả sẽ gây nguồn cảm hứng cho đường hướng chính trị và chủ trương của chúng ta thì các chính sách chỉ gây tai hại thay vì phục vụ cho toàn thể nhân loại.
Tôi tin rằng chúng ta cần phải có những bước tiến thực tiễn hầu nhận thức trách nhiệm của mình đối với mọi người khác trong hiện tại cũng như tương lai. Điều này là đúng thực cho dù có những sai biệt nhỏ giữa các chính sách với động cơ là tâm từ bi và đường lối khác, chủ yếu vì quyền lợi quốc gia.
Giờ đây, cho dù trong trường hợp chắc chắn là các lời đề nghị của tôi liên hệ đến từ bi, giới luật nội tâm, nhận thức trí tuệ và tu tập đạo đức được thực hành rộng rãi, thì thế giới tự động sẽ trở thành nơi chốn an lạc và hoà bình hơn. Tôi tin rằng thực tại bắt buộc chúng ta phải giải quyết các vấn đề trên bình diện xã hội cũng như cá nhân. Thế giới sẽ được chuyển hoá khi mỗi cá nhân đều cố gắng chống lại các ý tưởng và cảm xúc tiêu cực và khi chúng ta thực hành tâm từ bi đối với những người dù có hay không liên hệ trực tiếp với mình.
Với quan điểm đó, tôi tin có một số vấn đề trên thế giới mà chúng ta cần đặc biệt quan tâm và nêu lên trước ánh sáng của trách nhiệm toàn cầu. Chúng bao gồm các vấn đề giáo dục, thông tin, môi sinh, chính trị, kinh tế, hoà bình, giải giới và đoàn kết tôn giáo. Mỗi lãnh vực đều giữ một vai trò cốt yếu trong việc tạo thành thế giới chúng ta đang sống, và tôi đề nghị nên lần lượt phân tích ngắn gọn từng vấn đề.
Trước khi làm việc này, tôi cần nhấn mạnh rằng các ý kiến tôi trình bày hoàn toàn với tư cách cá nhân. Đó cũng là quan điểm của một người không hề tự xưng là thành thạo với sự tôn trọng các kỹ thuật chuyên môn về các vấn đề này. Nhưng nếu điều tôi nói có thể bị phản đối, tôi hy vọng là ít ra nó sẽ khiến độc giả ngừng lại giây lát để suy nghĩ. Vì dù không có gì đáng ngạc nhiên khi thấy một sự sai khác trong ý kiến liên hệ đến các điều đang được trình bày trong các chính sách hiện nay, nhu cầu của tâm từ bi, như là nền tảng căn bản cho các giá trị tâm linh, giới luật nội tâm và sự quan trọng của hành vi đạo đức, nói chung là quan điểm hiển nhiên của tôi.
Tâm con người là nguồn gốc và nếu được hướng dẫn đúng đắn, sẽ là giải pháp cho tất cả mọi vấn đề của chúng ta. Những người có trình độ kiến thức cao nhưng thiếu tâm từ bi sẽ làm mồi nguy hiểm cho các sự lo lắng và bất an như là kết quả của lòng ham muốn không bao giờ biết đủ và mãn nguyện. Trái lại, một sự hiểu biết chân thực các giá trị tâm linh sẽ có ảnh hưởng đối nghịch.
Khi chúng ta nuôi dạy con trẻ mình cho có kiến thức mà thiếu từ bi, thái độ của chúng đối với người khác sẽ giống như một hỗn hợp của các tính xấu đố kỵ với kẻ hơn mình, tranh chấp với người ngang hàng và khinh miệt kẻ thua kém. Điều này dẫn đến một khuynh hướng về lòng tham, tánh tự cao, sự thái quá và nhanh chóng đánh mất hạnh phúc. Kiến thức rất quan trọng. Nhưng việc cần thiết hơn là biết cách sử dụng nó cho có lợi ích. Điều đó tuỳ thuộc vào tâm và trí của người sử dụng.
Giáo dục là một công tác lớn hơn là chỉ nhằm mang lại kiến thức và sự tinh xảo hầu thành đạt các mục tiêu giới hạn. Nó còn giúp làm mở mắt cho con trẻ thấy được nhu cầu và quyền lợi của người khác. Chúng ta phải dạy dỗ cho các trẻ em hiểu rằng hành động của chúng có ảnh hưởng đến toàn cầu. Và chúng ta phải tìm cách xây dựng một tình cảm tự nhiên hướng thiện hầu giúp chúng có được ý thức trách nhiệm đối với tha nhân. Vì đây chính là điều thúc đẩy chúng ta hành động.
Thực vậy, nếu chúng ta phải chọn lựa giữa học vấn và đạo đức thì thứ sau hẳn nhiên có giá trị nhiều hơn. Một trái tim biết thương yêu như là kết quả của đức hạnh, tự nó sẽ mang lợi lạc to lớn đến cho nhân loại. Chỉ riêng kiến thức, không làm được vậy. Tuy nhiên, làm sao chúng ta dạy luân lý cho các trẻ em? Tôi nhận thấy rằng nói chung hệ thống giáo dục hiện nay không quan tâm đến vấn đề đạo đức. Đây có thể không phải là cố ý mà gần như là một thứ sản phẩm phụ của thực tại lịch sử. Hệ thống giáo dục thế tục được phát triển vào thời kỳ các cơ sở tôn giáo đang còn có ảnh hưởng lớn lao trong xã hội.
Vì các giá trị đạo đức và nhân bản vẫn còn đặt trong phạm vi của tôn giáo cho nên vấn đề giáo dục trẻ em hầu như được chăm sóc, đảm trách bởi tôn giáo. Công việc này đã hoạt động khá tốt cho đến lúc ảnh hưởng của tôn giáo bắt đầu sút giảm mặc dù nhu cầu vẫn còn đó nhưng lại không được đáp ứng. Do đó, chúng ta phải tìm một phương pháp khác nhằm hướng dẫn cho trẻ em hiểu rõ sự quan trọng về những giá trị căn bản của con người. Và chúng ta cần giúp chúng phát huy được các giá trị đó.
Sau cùng, dĩ nhiên việc quan trọng giúp đỡ tha nhân được học hỏi không chỉ bằng lời nói mà còn qua hành động. Ví dụ như từ chính chúng ta. Đó là lý do tại sao môi trường gia đình là thành phần chủ yếu trong việc dạy dỗ một đứa trẻ. Khi một không khí chăm sóc và tình thương thiếu vắng trong nhà, khi trẻ em bị cha mẹ hất hủi, kết quả tai hại rất có thể xảy ra. Trẻ em có khuynh hướng cảm thấy mình không được giúp đỡ và thiếu an toàn và tâm trí chúng thường bị rối loạn.
Trái lại, khi trẻ em nhận được sự trìu mến và bảo bọc thường xuyên chúng cảm thấy hạnh phúc và tự tin vào khả năng của mình hơn, sức khoẻ thể xác của chúng cũng tốt hơn. Và ta thấy chúng không phải quan tâm nghĩ tưởng riêng chúng mà cả đến người khác nữa. Môi trường gia đình cũng rất quan trọng vì trẻ em học hỏi thái độ tiêu cực từ cha mẹ chúng. Thí dụ, nếu người cha thườnng hay tranh chấp với bạn bè, hoặc có người cha hay mẹ luôn luôn gây gỗ cải cọ nhau, mặc dù lúc đầu đứa trẻ cảm thấy điều ấy đáng chê trách nhưng lâu ngày chúng xem như việc bình thường. Rồi chúng mang sự học hỏi ấy ra khỏi nhà và áp dụng vào trong thế giới.
Khỏi cần nói, các trẻ em sẽ đem ra thực hành trước tiên những điều mà chúng học biết những hành vi đạo đức ở nhà trường. Về điểm này, các thầy giáo phải đặc biệt chịu trách nhiệm. Bằng chính thái độ của họ khiến các em sẽ nhớ đến họ suốt đời. Nếu hành vi này là nguyên tắc kỷ luật và tình thương thì những giá trị đó sẽ gây ấn tượng tốt đẹp trong tâm trí các em. Bởi vì những bài học do các thầy dạy dỗ với sự tích cực xây dựng sẽ thấm sâu vào tâm trí những học sinh của họ. Nhờ chính kinh nghiệm bản thân mà tôi biết rõ điều này. Lúc đó còn nhỏ tôi rất lười biếng, nhưng khi tôi nhận thức được tình thương và sự chăm sóc của các thầy giáo, những bài giảng của họ sẽ được khắc ghi vào tâm não sâu đậm hơn là nếu vào thời ấy có một vị trong nhóm lại quá khắt khe hoặc thiếu tình thương.
Cho đến bây giờ các giáo chức phục vụ trong ngành giáo dục đều do các chuyên gia đảm trách. Vì thế tôi chỉ xin lược tóm vài đề nghị. Trước hết để thức tĩnh lớp người trẻ hiểu biết được tầm quan trọng của những giá trị nhân bản, tốt hơn không nên trình bày các vấn đề xã hội thuần tuý như là chủ đề đạo đức hay tôn giáo. Điều quan trọng cần nhấn mạnh rằng đó là trụ cột cho sự tiếp tục sinh tồn của chúng ta.
Bằng cách ấy, giới trẻ sẽ nhận thấy rằng tương lai nằm trong tay của chúng. Kế đến, tôi tin rằng cuộc đối thoại đó nên được dạy trong lớp học. Trình bày với các học sinh một đề tài có tính cách tranh luận và để các em bàn cãi thảo luận với nhau, đó là phương pháp rất hiệu quả nhằm giới thiệu cho lớp trẻ khái niệm giải quyết cuộc tranh chấp một cách bất bạo động. Thực vậy, hy vọng rằng khi học đường ưu tiên quan tâm đến việc này sẽ mang lại kết quả lợi lạc cho chính đời sống của gia dình. Khi thấy cha mẹ gây gỗ cãi cọ với nhau, một đứa trẻ hiểu được giá trị của đối thoại sẽ tự nhiên nói: “Ồ, không nên. Cách đó không phải rồi. Cha mẹ cần nói chuyện, thảo luận với nhau một cách nhã nhặn ôn hoà hơn”.
Sau cùng, điều cốt yếu là phải loại khỏi chương trình giảng dạy bất cứ khuynh hướng nào mang màu sắc tiêu cực. Ví dụ, tại vài nơi trên thế giới, người ta giảng dạy lịch sử với lý thuyết cuồng tín hoặc kỳ thị chủng tộc đối với các cộng đồng khác. Dĩ nhiên đó là điều sai lầm. Nó chẳng đóng góp được gì cho hạnh phúc nhân loại. Bây giờ hơn lúc nào hết, chúng ta cần chỉ dẫn cho các em hiểu rằng sự phân biệt giữa “nước ta” và “nước người”, “tôn giáo ta” và “tôn giáo người” là không quan trọng. Đúng hơn, ta phải nhấn mạnh trên sự nhận thức rằng quyền hưởng hạnh phúc của tôi không cân nặng hơn quyền của người khác. Nói vậy không phải bảo rằng chúng ta nên dạy con em từ bỏ và không biết đến truyền thống văn hoá và lịch sử của nơi chúng sinh ra. Trái lại, điều quan trọng là phải đặt nền tảng trên đó.
Rất tốt cho trẻ em được học biết yêu quê hương, tôn giáo và văn hoá của chúng. Nhưng nguy hiểm sẽ đến khi điều đó phát triển thành một thứ chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa vị chủng và cuồng tín tôn giáo. Thí dụ của thánh Gandhi rất thích hợp nhắc tới ở đây. Mặc dù chịu ảnh hưởng sâu đậm phương pháp giáo dục của Tây Phương, nhưng ngài không bao giờ lảng quên hay trở thành xa lạ với di sản phong phú từ nền văn hoá Ấn Độ của ông.
Nếu giáo dục thành lập được một trong các loại vủ khí mạnh mẽ nhất với sự tìm cầu mang lại một thế giới an lạc và hoà bình hơn thì truyền thông là một thứ khác. Mọi chính trị gia đều biết họ không còn duy nhất là những người có quyền lực trong xã hội. Thêm vào đó còn có sách báo, truyền thanh, điện ảnh và truyền hình đã cùng chung tạo ảnh hưởng lớn lao trên những cá nhân không thể tưởng tượng nổi vào khoảng một trăm năm trước. Sức mạnh này đã ban cho những người hoạt động trong lãnh vực thông tin cũng như mỗi chúng ta, các cá nhân được nghe, đọc và xem một trách nhiệm lớn lao. Chúng ta cũng có dự phần vào. Trong truyền thông chúng ta không phải vô quyền lực. Một cái bấm nút để kiểm soát đài nằm trong tay chúng ta.
Điều này không có nghĩa là tôi biện hộ cho các báo cáo khô khan hay giải trí thiếu hấp dẫn. Trái lại, cho đến nay trong lãnh vực báo chí điều tra, tôi kính trọng và đánh giá cao sự can thiệp của giới thông tin. Không phải mọi người phục vụ công cộng đều thành thực trong khi thi hành bổn phận của họ. Cho nên, rất thích hợp cần có các ký giả với mũi dài như vòi của voi đánh hơi rình mò xung quanh để phơi bày các điều sai quấy mà họ khám phá ra. Chúng ta cần biết đến những cá nhân rất nổi tiếng đã che giấu một khía cạnh đặc biệt nào đó bên dưới vẻ mặt dễ mến của họ. Có thể có sự khác biệt giữa bề ngoài và đời sống nội tâm của một cá nhân. Rốt cuộc cũng chỉ là cùng một người. Sự khác nhau đó đã khiến họ trở nên khó tin cậy. Cùng lúc, việc quan trọng là nhân viên điều tra không thể hành động vì những lý do không chính đáng. Không công bằng và không kính trọng lẽ phải của người khác thì cuộc điều tra tự nó đã bị ung thối.
Trong vấn đề thông tin, người ta thường nhấn mạnh về dục tính và bạo động có nhiều yếu tố cần cứu xét. Trước hết rõ ràng là đa số quần chúng và khán giả đều ham muốn các cảm giác được kích thích bởi loại chất liệu đó. Thứ đến, tôi nghĩ rằng các sản phẩm chứa đựng nhiều hình ảnh khêu gợi dục tình và bạo động ấy có ý định gây tai hại. Mục đích của họ chắc chắn chỉ nhằm vào thương mại. Dù cho tự nó là tích cực hay tiêu cực, theo tôi điều đó không quan trọng bằng vấn đề nó có mang lại ảnh hưởng đạo đức lành mạnh gì không? Nếu kết quả sau khi xem một phim với nhiều bạo động giúp khơi dậy được lòng từ bi nơi khán giả thì việc diễn tả hành vi bạo động đã được chứng minh. Nhưng nếu sự tích luỹ nhiều hình ảnh bạo động dẫn đến sự thờ ơ không để ý thì kết quả ngược lại. Thực vậy làm chai đá con tim là một điều rất tai hại. Nó dễ dàng đưa đến khiến lòng người không còn tình thương.
Khi giới truyền thông chú trọng quá nhiều vào các khía cạnh tiêu cực của bản tính con người, điều nguy hiểm là chúng ta sẽ được thuyết phục để tin rằng bạo lực và sự gây hấn là các đặc điểm chính yếu. Tôi tin đó là một điều sai lầm. Sự kiện bảo rằng chỉ có tin tức bạo hành mới đáng xem là ý kiến hoàn toàn trái ngược. Những tin tức hấp dẫn ít khi được chú ý bởi vì có quá nhiều. Hảy xem vào bất cứ thời điểm nào cũng có hàng trăm triệu hành động tốt đang xảy ra khắp nơi trên thế giới. Mặc dù cùng lúc cũng có nhiều việc làm bạo động đang diễn tiến, nhưng chắc chắn con số sẽ ít hơn. Do đó, nếu thông tin có trách nhiệm đạo đức cần nên phản ảnh sự thực đơn giản đó.
Việc đưa ra các luật lệ truyền thông rõ ràng là cần thiết. Sự kiện ngăn cấm con em chúng ta không nên xem một số tin tức nào đó, chứng tỏ chúng ta đã phân biệt những điều gì có lợi và bất lợi tuỳ theo các hoàn cảnh khác nhau. Nhưng pháp luật có phải là phương cách đúng để giải quyết công việc ấy chăng là một việc khó xét đoán. Trong tất cả những vấn đề đạo đức, giới luật chỉ thực sự có kết quả khi phát xuất từ nội tâm. Cách tốt nhất để bảo đảm sự lành mạnh của sản phẩm đa dạng xuyên qua truyền thông là chúng ta cần giáo dục cho các trẻ em. Nếu ta hướng dẫn các em biêt ý thức trách nhiệm của mình, chúng sẽ trở nên có kỷ luật hơn khi tham dự vào truyền thông.
Mặc dù không mấy hy vọng giới thông tin sẽ truyền bá các lý tưởng và nguyên tắc của tâm từ bi, ít ra chúng ta mong chờ những người liên hệ sẽ quan tâm khi có tiềm ẩn ảnh hưởng tiêu cực. Ít ra không nên dành chỗ cho sự khuyến khích các hành động tiêu cực như bạo hành và kỳ thị chủng tộc. Nhưng vượt lên trên điều đó, tôi chưa biết thế nào.Chúng ta có thể tìm phương cách gì hầu liên kết trực tiếp hơn những người viết ra các câu chuyện cho nguồn tin tức và giải trí cùng với các khán giả, độc giả và thính giả chăng?



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/02/2021(Xem: 5476)
Phật Giáo Việt Nam kể từ khi lập quốc (970) đến nay đã đóng góp rất lớn cho nền Văn Học Việt Nam qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần..v..v.. nhưng không có một Quốc Sử Việt Nam nào ghi nhận cả, điều đó thật là đau buồn, mặc dù Phật Giáo Việt Nam thời bấy giờ và cho đến bây giờ không cần ai quan tâm đến. Phật Giáo Việt Nam nếu như không có công gì với núi sông thì đâu được vua Đinh Tiên Hoàng phong Thiền sư Ngô Chân Lưu đến chức Khuông Việt Thái Sư và chức Tăng Thống Phật Giáo Việt Nam vào năm Thái Bình thứ 2 (971). Cho đến các Thiền sư như Pháp Thuận, Vạn Hạnh,v..v.... đều là những bậc long tượng trong trụ cột quốc gia của thời bấy giờ, thế mà cũng không thấy một Quốc Sử Việt Nam nào ghi lại đậm nét những vết son cao quý của họ.
23/02/2021(Xem: 10463)
Văn học thời Trần là giai đoạn văn học Việt Nam trong thời kỳ lịch sử của nhà Trần (1225 – 1400). Văn học thời Trần tiếp tục và có nhiều bước tiến bộ rõ rệt hơn so với văn học thời Lý (1010 – 1225). Văn học thời Trần chịu ảnh hưởng của Phật giáo và Nho giáo. Tư tưởng Phật giáo chủ yếu trong văn học thời Trần là tư tưởng thiền học.
23/02/2021(Xem: 9272)
Trong nội dung của ấn bản lần thứ hai của quyển “Tư tưởng Phật giáo trong Văn học thời Lý”, chúng tôi vẫn giữ những điểm chính quan trọng của ấn bản lần thứ nhất. Tuy nhiên, chúng tôi đã sửa chữa và bổ sung một vài nơi. Chúng tôi đánh giá cao sự góp ý và phê bình của: GS Lưu Khôn (Cựu GS tại trường ĐHVK Saigon và Cần Thơ), GS Khiếu Đức Long (Cựu GS tại ĐH Vạn Hạnh), Ô. Nguyễn Kim Quang (Cựu học sinh Lycée Petrus Ký 1953-1960), cố Kỹ Sư Nguyễn Thành Danh (Vancouver, Canada). Trong khi viết quyển sách này lần thứ nhất vào năm 1995, chúng tôi đã được sự giúp đỡ và góp ý của các thân hữu: cố Hoà Thượng Thích Nguyên Tịnh (Cựu Trú trì Chùa Thiền Tôn, Vancouver, Canada), cố GS Nguyễn Bình Tưởng (Cựu Hiệu Trưởng trường Trung Học Vĩnh Bình, và Cựu Giám Học trường Trung Học Nguyễn An Ninh, Saigon), chúng tôi chân thành cám ơn quý vị này.
20/02/2021(Xem: 6589)
Thơ tụng tranh chăn trâu của thiền sư Phổ Minh gồm tất cả mười bài thơ “tứ tuyệt” cho mười bức tranh chăn trâu với các đề mục sau đây: 1. Vị mục: chưa chăn 2. Sơ điều: mới chăn 3. Thọ chế: chịu phép 4. Hồi thủ: quay đầu 5. Tuần phục: thuần phục 6. Vô ngại: không vướng 7. Nhiệm vận: theo phận 8. Tương vong: cùng quên 9. Độc chiếu: soi riêng 10. Song mẫn: cùng vắng
20/02/2021(Xem: 8982)
Kinh Hoa Nghiêm được giải thích là kinh đầu tiên khi Phật đạt chánh đẵng chánh giác sau 49 ngày thiền định. Sau đó người giảng kinh Hoa Nghiêm cho chư thiên và bồ tát là giảng bằng thiền định tâm truyền tâm nên im lặng suốt 21 ngày. Kinh Hoa Nghiêm nói về Tâm. Kế đến Kinh Lăng Già Phật cũng giảng cho Ma vương và ma quỷ sống trong hang động ở đỉnh núi Lăng Già. Phật giảng bằng tâm truyền tâm ấn nên không có nói bằng lời và giảng về Thức vì Ma vương không còn uẩn sắc nữa mà chỉ còn là tâm thức. Kinh Lăng già là giảng về Duy Thức Luận. (bài viết của cư sĩ Phổ Tấn)
20/02/2021(Xem: 5145)
Washington: Theo báo cáo của The Economist, Trong nỗ lực mới nhất nhằm thắt chặt vòng vây Tây Tạng, Trung Cộng đang buộc người Tây Tạng ít quan tâm đến tôn giáo của họ hơn, và thể hiện nhiệt tình hơn đối với chế độ độc tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc do Tập Cận Bình lãnh đạo tối cao. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tăng cường nỗ lực phủ nhận vai trò của Đức Đạt Lai Lạt Ma ra khỏi đời sống tôn giáo của người dân Tây Tạng để xóa bỏ danh tính của họ. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cưỡng chiếm Tây Tạng vào giữa thế kỷ 20 sau thập niên 1950, và kể từ đó đã kiểm soát khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal, và Pakistan tại châu Á, ở phía bắc-đông của dãy Himalaya..
17/02/2021(Xem: 5340)
Nội dung tác phẩm dựa trên một bức tranh nổi tiếng có tên là “Thanh minh thượng hà đồ” (nghĩa là “tranh vẽ cảnh bên sông vào tiết Thanh minh”) của nghệ sĩ Trương Trạch Đoan vào thời nhà Tống cách đây hơn 1000 năm. Thiên tài Albert Einstein đã từng nói: “Nghệ thuật thật sự được định hình bởi sự thôi thúc không thể cưỡng lại của người nghệ sĩ sáng tạo”. Và một nghệ sĩ điêu khắc người Trung Quốc – Trịnh Xuân Huy đã chứng minh điều đó qua kiệt tác nghệ thuật của ông trên một thân cây dài hơn 12 mét. Chắc chắn bạn sẽ phải ngạc nhiên về một người có thể sở hữu tài năng tinh xảo đến như vậy!
17/02/2021(Xem: 5781)
Một quán chiếu về những ánh lung linh trên bề mặt một hồ nước gợn sóng lăn tăn bởi làn gió nhẹ. Một con sông khổng lồ của si mê tin tưởng sai lầm tâm-thân là tồn tại cố hữu tuôn chảy vào hồ nước của việc hiểu sai cái "tôi" như tồn tại cố hữu. Hồ nước bị xáo động bởi những làn gió của tư tưởng phiền não chướng ngại ẩn tàng và của những hành vi thiện và bất thiện. Sự quán chiếu ánh trăng lung linh biểu tượng cho cả trình độ thô của vô thường, qua sự chết, và trình độ vi tế của vô thường, qua sự tàn hoại từng thời khắc thống trị chúng sanh. Ánh lung linh của những làn sóng minh họa tính vô thường mà chúng sanh là đối tượng, và quý vị thấy chúng sinh trong cách này. Bằng sự ẩn dụ này, quý vị có thể phát triển tuệ giác vào trong vấn đề chúng sinh bị kéo vào trong khổ đau một cách không cần thiết như thế nào bằng việc điều hướng với tính bản nhiên của chính họ; tuệ giác này, lần lượt, kích hoạt từ ái và bi mẫn.
16/02/2021(Xem: 4650)
Nói về pháp khí, nhạc khí của Phật giáo là nói đến chuông, trống và mõ. Trong ba pháp cụ đó. Tiếng chuông chùa đã gợi nguồn cảm hứng không ít cho những văn, thi sĩ. Hiện nay rất ít tài liệu nói về nguồn gốc của chuông, trống và mõ. Sự kiện trên khiến các học giả nghiên cứu về chuông, trống, mõ gặp trở ngại không nhỏ. Tuy thế dựa vào bài Lịch sử và ý nghĩa của chuông trống Bát nhã do thầy Thích Giác Duyên viết đã đăng trong Thư Viện Hoa Sen, khiến chúng ta biết được người Trung Hoa đã dùng chuông vào đời nhà Chu ( thế kỷ 11 Trước CN – 256 Trước CN ). Riêng việc chuông được đưa vào các chùa chiền ở Việt Nam từ thời nào người viết không biết có tài liệu nào đề cập đến không?
14/02/2021(Xem: 5234)
Pháp Hoa kinh là vua của các kinh vì ở vào thời kỳ thứ 5 trong lịch sử đạo Phật. Lúc bấy giờ là cuối đời thọ mạng của đức Phật nên kinh giảng của người mang toàn bộ tính chất của đạo Phật do người thuyết pháp. Có hai cốt lỏi của kinh Pháp Hoa là Phật tánh và Tri kiến Phật. Phật tánh đã được tóm lược trong bài Nhận biết Phật tánh cùng tác giả. Tri là biết, kiến là thấy, biết thấy Phật là gì? Biết là tuệ giác người dạy cho chúng ta và thấy là thấy đại từ bi của Phật. Đó là trí tuệ và từ bi là đôi cánh chim đại bàng cất cao bay lên trong tu tập. Chúng ta nghiên cứu trí tuệ của toàn bộ đạo Phật một cách tổng luận để tư duy, về phần từ bi chúng ta đã hiểu qua bài Tôi Học kinh Pháp Hoa đồng tác giả. Trí tuệ đạo Phật có gồm hai phần triết lý đạo Phật và ứng dụng. Tri kiến Phật là nắm hết các điểm chính của đạo Phật theo lịch sử của thời gian. Chúng ta hãy đi sâu về tuệ giác.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]