Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tứ Diệu Đế Và Bát Chánh Đạo Trong Kinh Pháp Cú

22/06/202013:52(Xem: 5044)
Tứ Diệu Đế Và Bát Chánh Đạo Trong Kinh Pháp Cú

TỨ DIỆU ĐẾ VÀ BÁT CHÁNH ĐẠO
TRONG KINH PHÁP CÚ

Tâm Minh Ngô Tằng Giao
tu-dieu-de

     Truyện tích kể rằng sau khi đi một vòng châu du hoằng Pháp ở các làng mạc, Đức Phật trở về tịnh xá, và giữa chúng Tăng có cuộc thảo luận về trạng thái gồ ghề hay bằng phẳng của các con đường đã trải qua. Đức Phật nói rằng thảo luận về các con đường ấy không thích hợp cho sự giải thoát, đó chỉ là những đoạn đường ở bên ngoài thân tâm. Ngài khuyên chư Tăng nên lưu tâm đến con đường cao thượng là “Bát Chánh Đạo” thuộc giáo lý “Tứ Diệu Đế” và những việc cần phải làm khác để sớm đắc được đạo quả. Những giáo lý căn bản của Đạo Phật đưọc tóm tắt như sau đây:

 (Pháp Cú 273)

Con đường cao thượng hàng đầu

Là “Bát Chánh Đạo” nhiệm mầu biết bao,

Bốn điều chân lý tối cao

Là “Tứ Diệu Đế” dễ nào sánh ngang,

Không còn luyến ái vấn vương

Là điều cao thượng thơm hương Niết Bàn,

Trong loài động vật hai chân

Thì Đấng Toàn Giác vô ngần tối cao.

 

     Người Phật tử tu học để muốn vĩnh viễn yên vui ở ngoài vòng sinh tử của thế gian. Muốn đạt được kết quả đó trước hết người Phật tử phải thấu hiểu tình trạng đời người, biết rõ căn bệnh của thế gian ra sao, để rồi tìm thuốc trị bệnh. Đức Phật khi dạy chúng sinh tìm quy y Phật, Pháp, Tăng là nhắm giúp chúng sinh mở mang trí tuệ và đồng thời hiểu rõ được bốn chân lý mầu nhiệm mà thoát khổ. Bốn chân lý đó gọi là “Tứ Diệu Đế”:

 

(Pháp Cú 190 - 191)

Nếu quy y Phật, Pháp, Tăng

Riêng phần trí tuệ vinh thăng nhiệm mầu

Hiểu ra Tứ Đế thâm sâu:

Biết rằng trần thế khổ đau là gì,

Hiểu ra nguồn gốc khổ kia,

Biết đường diệt hết khổ đi là rồi

Biết Bát Chánh Đạo tuyệt vời

Tám đường chân chính con người nên theo.

 

     Đức Phật giảng “Tứ Diệu Đế” để giải rõ tình trạng đời người và dạy phương pháp thay đổi tình trạng đó. “Tứ” là bốn; “Diệu” là huyền diệu, mầu nhiệm, cao quý; “Đế”, là sự thật, là chân lý. Tứ Diệu Đế là bốn chân lý mầu nhiệm. Đó là: khổ (Khổ Đế); nguồn gốc của khổ (Tập Đế); sự diệt khổ (Diệt Đế) và con đường dẫn đến sự diệt khổ (Đạo Đế).

 

     Khổ phải được thông suốt, hiểu biết. Nguồn gốc của khổ, nguyên nhân gây ra khổ (tức ái dục) phải được tận diệt. Sự diệt khổ (tức Niết Bàn) phải được chứng ngộ. Con đường dẫn đến sự diệt khổ (tức Bát Chánh Đạo) phải được phát triển. Dầu chư Phật có giáng sinh hay không, bốn Chân Lý ấy vẫn có trên thế gian. Chư Phật chỉ khám phá ra và vạch rõ cho nhân loại thấy bốn chân lý mầu nhiệm này mà thôi.

 

     1. Khổ đế: Sự thật đầu tiên về tình trạng đời sống của chúng sinh trong thế gian là đau khổ, một thực trạng mà con người cảm nhận từ lúc lọt lòng mẹ cho đến khi nhắm mắt xuôi tay. Đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, thương yêu mà biệt ly là khổ, mong cầu mà không được là khổ. Tóm lại, chấp thủ năm uẩn là khổ”. Như vậy, “khổ” có thể chia làm 3 phương diện:

    

     Về phương diện sinh lý: khổ là một cảm giác khó chịu, đau đớn của thể xác như khi bị một gai nhọn đâm buốt bàn chân hay một hạt cát vào trong mắt... Con người sinh ra đã vất vả khốn đốn, lớn lên già yếu, bệnh tật khốn khổ vô cùng và cuối cùng là cái chết, là sự tan rã của thể xác.

     Về phương diện tâm lý: khổ là do không toại ý, không vừa lòng v.v... Những mất mát, thua thiệt trong cuộc đời làm mình khổ. Người mình thương muốn gần mà không được, người mình ghét mà cứ phải gặp gỡ hoài. Muốn tiền tài, danh vọng, địa vị nhưng nó cứ vụt qua ngoài tầm tay mình v.v…

     Về sự chấp thủ năm uẩn: Cái khổ thứ ba này bao hàm hai cái khổ trên, như trong kinh đã dạy: “Chấp thủ năm uẩn là khổ”. Năm uẩn hay “ngũ uẩn” là năm yếu tố nương tựa vào nhau để tạo thành con người, gồm có: thân thể vật lý là sắc và cấu trúc tâm lý là thọ, tưởng, hành và thức. Gọi chung lại là “ sắc, thọ, tưởng, hành, thức”. Nói một cách tổng quát, khi ta bám víu vào năm yếu tố trên, coi đó là “ta”, là “của ta”, là tự ngã của ta, thì khổ đau có mặt. Mọi khổ đau, lo lắng, sợ hãi, thất vọng đều gắn liền với ý niệm về “cái ta” ấy.

     Phật giáo không phủ nhận rằng trong đời người cũng có lúc vui vẻ sung sướng vì thân tâm được thỏa mãn trong những điều mong muốn. Những hạnh phúc ấy là quả tốt của những nghiệp lành đã tạo ra trong kiếp trước hay kiếp này. Đức Phật không dạy rằng con người phải tránh những hạnh phúc ấy. Không nên hiểu lầm là Ngài có ý phủ nhận tình cảm của con người để theo đuổi một số lý tưởng tinh thần cao thượng. Điều mà Đức Phật muốn nhắc nhở chúng ta không phải là bảo ta dẹp bỏ hoàn toàn tình cảm lành mạnh của con người, mà chỉ có ý nhắc chúng ta không nên chú tâm quyến luyến và gắn bó vào những thú vui vật chất. đừng say đắm mê mờ trong những hạnh phúc trên. Đức Phật nói cái vui đó là cái vui mong manh trong đau khổ, cái vui còn vướng trong vô minh nghiệp chướng đưa đến khổ đau càng sâu dày thêm.

“Bể khổ mênh mông nước ngập trời                              
Khách trần chèo một chiếc thuyền chơi,                       
Thuyền ai ngược gió ai xuôi gió,                                     
Ngẫm lại cùng trong bể khổ thôi!”

     Một nhà thơ đã cảm hứng mà viết như trên. Ngược gió hay xuôi gió, chiếc thuyền cũng ở trong biển mà thôi, không thể vượt lên trên biển được. Mà cái biển đó là biển khổ. Cho nên cái vui của con người trong cảnh trầm luân này là cái vui trong đau khổ của thế gian, chưa phải là cái vui giải thoát. Do thế, Đức Phật nói đời là bể khổ, mặc dù chúng sinh cho đời là vui, rồi say đắm theo đời, không giờ phút nào rời khỏi, cho đến một ngày nào đó phải nhắm mắt tắt thở, bấy giờ mới hoảng hốt, khổ đau.

 

     Điều làm trở ngại quan trọng nhất cho việc phát triển tâm linh không phải là những vật, những việc, hay những ngoại cảnh có sức tạo niềm khoái lạc và thích thú; mà chính là cái tâm ý thiết tha gắn bó, nhớ tưởng đến những vật hay những việc ấy, theo lòng ham muốn ích kỷ của con người. Theo Phật Giáo chính trạng thái tinh thần khi đối đầu với ngoại cảnh mới là điều quan trọng.

 

     Một hoàng tử xuất gia và rút vào rừng, hành thiền một mình. Về đêm, ông nghe văng vẳng tiếng đàn hát từ thành vọng đến và lấy làm bất mãn với lối sống đơn độc giữa rừng sâu. Một vị thần trên cây khuyến khích ông nên cố gắng tìm thích thú trong đời sống cô đơn. Về sau, thầy Tỳ kheo bất mãn ấy trở về bạch lại tự sự với Đức Phật. Đức Phật giảng cho thầy về tính cách khó khăn của kiếp sống ở thế gian:

 

(Pháp Cú 302)

Khó thay diệt ái dục rồi

Để mà vui sống cuộc đời xuất gia,

Khó thay cuộc sống tại nhà

Trần gian sinh hoạt thật là thương đau,

Khổ thay phải sống gần nhau

Khi không ý hợp tâm đầu êm xuôi,

Khổ thay cứ mãi nổi trôi

Trong vòng sinh tử luân hồi quẩn quanh,

Vậy lo vượt thoát cho nhanh

Khổ đau nơi ấy, tử sinh chốn này.

 

     Đức Phật giảng cho ta trông thấy cuộc đời sâu hơn, xa hơn, đúng với sự thật hơn. Trông sâu hơn và xa hơn, vì những sung sướng trong thế gian không vững bền, không vĩnh viễn. Khi nó mất thì chúng ta buồn đau. Mà ngay khi còn, nó cũng gây cho chúng ta biết bao bận rộn, lo nghĩ, ghét ghen, thù oán… Trông đúng với sự thật hơn, vì trong khi ta đang say đắm trong hạnh phúc, nếu ta không biết tu tập để giữ gìn và làm tăng trưởng nhân duyên lành đã sinh ra hạnh phúc thì hạnh phúc đã bắt đầu suy giảm theo luật “vô thường” rồi. Đau khổ đã dần dần đến thay thế cho sung sướng rồi. Bởi vậy tình trạng chung và đúng sự thật của thế gian là đau khổ. Ấy là một “lẽ thật” chắc chắn, hiển nhiên. 

 

     Một chàng thanh niên được cha mẹ hết lòng thương yêu. Chàng xuất gia làm Tỳ kheo mà không được cha mẹ ưng thuận trước. Về sau, cha mẹ thầy cũng lần lượt theo nhau xuất gia. Tuy nhiên chàng và cha mẹ không sống rời nhau và không dứt tình phụ mẫu, cứ mãi khăng khít quây quần bên nhau, sống chung với nhau trong một ngôi chùa và cùng đi khất thực. Các vị Tỳ kheo khác cảm thấy khó chịu nên đến bạch với Đức Phật. Nghe câu chuyện, Đức Phật dạy rằng thương hay ghét đều tạo khổ:

 

 (Pháp Cú 210)

Chớ kề cận kẻ yêu thương,

Chớ gần gũi kẻ mình thường chẳng ưa,

Ở đời khổ mấy cho vừa

Khi yêu không gặp, khi ưa chẳng kề

Cũng đau cũng đớn kể chi

Ghét này phải gặp, oán kia phải kề.

 

     Đức Phật cũng dạy thêm rằng không nên say mê luyến ái vì khi xa lìa hay mất đi điều mình luyến ái thời mình sẽ cảm thấy đau khổ. Sự say mê luyến ái dễ bị ràng buộc:

 

(Pháp Cú 211)

Đừng yêu đến độ say mê

Kẻo khi ly biệt não nề héo hon

Nếu mà yêu ghét không còn

Chẳng chi ràng buộc, tâm hồn thảnh thơi.    

 

     2. Tập đế: là nguồn gốc hay nguyên nhân dẫn đến thực trạng đau khổ. Tập” là tích tập, các phiền não chồng chất tụ hội tạo thành năng lực đưa đến khổ đau. Khi nhận thức được bản chất của khổ một cách rõ ràng, ta mới có thể đi vào con đường đoạn tận khổ đau.

 

     Cuộc đời là khổ đau hay không đều tùy thuộc vào thái độ tâm lý, cảm thọ và nhận thức của mỗi người; nguyên nhân của khổ có nguồn gốc sâu xa trong tâm tưởng của con người. Phật Giáo cũng nhìn thấy các nguyên nhân của đau khổ; có cái phát sinh từ vật chất hay hoàn cảnh xã hội, nhưng nguyên nhân thật sự vẫn là tâm thức.

     Nguyên nhân của khổ thường được các kinh đề cập chính là tham ái, do tham ái mà chấp thủ, bám víu vào các đối tượng của tham ái. Sự khao khát về dục lạc sẽ dẫn đến khổ đau, bởi vì lòng khao khát ấy không bao giờ thỏa mãn. Đức Phật dạy “Tham ái sinh sầu ưu, tham ái sinh sợ hãi. Ai giải thoát tham ái thời không còn sầu ưu sợ hãi nữa”:

 

(Pháp Cú 216)

Khởi từ tham ái sinh ra

Sinh lo, sinh sợ khó mà tránh đi

Khi mà tham ái xa lìa

Chẳng còn lo sợ chút gì nữa đâu.

 

     Nguyên nhân sâu hơn và căn bản hơn chính là vô minh, tức là si mê không thấy rõ bản chất của sự vật hiện tượng đều nương vào nhau mà sinh khởi, đều vô thường và chuyển biến, không có cái chủ thể, cái bền vững độc lập ở trong chúng. Do không thấy rõ nên sinh tâm tham muốn, ôm giữ lấy các đối tượng lạc thú. Do không thấy rõ mới lầm tưởng rằng “cái ta” là quan trọng nhất, là cái có thực cần phải bám víu, củng cố và thỏa mãn nhu cầu của nó. Do vô minh mà có chấp thủ “cái ta” và “cái của ta”. Do những chấp thủ ấy mà có những nỗi thống khổ của cuộc đời. Chúng ta có thể nhận thấy một cách rõ ràng, khổ hay không là do lòng mình, do cái nhìn của mỗi người đối với cuộc đời. Nếu không bị sự chấp ngã và dục vọng vị kỷ hay phiền não khuấy động, chi phối, ngự trị trong tâm thì cuộc đời đầy an lạc, hạnh phúc.

 

     3. Diệt đế: Diệt” là chấm dứt, là dập tắt. Diệt đế là sự chấm dứt hay dập tắt phiền não, nguyên nhân đưa đến đau khổ. Khi phá trừ hết những phiền não rồi thì con người được tự do hoàn toàn, yên vui, sáng suốt và không còn những nhân để tạo ra luân hồi nữa. Con người đã giải thoát khỏi sinh tử và đạt tới Niết Bàn.

     Đạo Phật xác nhận cuộc đời đầy dẫy những đau khổ, chúng ta thường được nghe nói rằng “đời là bể khổ”. Tuy thế Đạo Phật đồng thời cũng xác định có một sự thật khác nữa là an lạc, hạnh phúc. Vì vậy mà có sự tu tập để đạt được hạnh phúc. Hạnh phúc này hoặc tương đối hoặc tuyệt đối.

     Hạnh phúc tương đối: Khi ta làm lắng dịu lòng tham ái, chấp thủ thời tâm trí không còn bị đun nóng bởi các ngọn lửa phiền muộn, lo lắng, sợ hãi nữa. Tâm ý của ta trầm tĩnh và sáng suốt hơn, khả năng nhận thức sự vật hiện tượng sâu sắc và chính xác hơn. Thân tâm ta được chuyển hóa, thái độ ứng xử của ta đối với mọi người độ lượng, bao dung và khiêm tốn; đối với của cải, tài sản, danh vọng trở nên thanh thản hơn, không còn bị áp lực của nó đè nặng lên trái tim mình. Trên cơ sở ấy, ta hưởng thụ đời sống có phẩm chất hơn. Tóm lại, tùy vào khả năng giảm thiểu lòng tham, sân và vô minh đến mức độ nào thì đời sống của ta sẽ được tăng phần hạnh phúc lên mức độ ấy.

     Nếu ta phát triển hạnh phúc tinh thần cao hơn bằng cách tu tập thiền định thì ta sẽ có sự an lạc tuyệt vời. Đức Phật dạy: “Có người có thể không bị bệnh về thể xác trong một năm hay có thể đến cả trăm năm, nhưng thật hiếm có người không bị bệnh về tinh thần, dù chỉ trong một phút”. Những tâm lý được coi là bệnh của tinh thần là tham lam (tham muốn chạy theo nhục dục ngũ trần “sắc, thanh, hương, vị, xúc”), sân hận (oán ghét, bất toại nguyện), hôn trầm dã dượi (uể oải trong tâm, không tinh tấn, kiên trì), dao động và hối hận (lo âu vì những hành động bất thiện), hoài nghi và do dự (tâm bất định). Khi các loại tâm lý này có mặt, nó sẽ trói buộc và ngăn che tâm trí của ta; loại trừ chúng đi thì tinh thần sẽ sáng tỏ thanh tịnh và an lạc như mặt trăng thoát khỏi đám mây che. Các trạng thái hạnh phúc tinh thần này được gọi là “Tứ thiền”.

     Hạnh phúc tuyệt đối: Trên nền tảng hạnh phúc tinh thần, ta phát triển tuệ quán, hướng tâm đến đoạn trừ toàn bộ phiền não vi tế, thâm sâu, ta có thể đạt hạnh phúc tuyệt đối, tối thượng là Niết Bàn. Diệt đế chính là Niết Bàn. Niết Bàn là sự thanh tịnh, là hạnh phúc tuyệt đối. Đức Phật dạy:

(Pháp Cú 204)

Ai không bệnh, lợi nhất đời

Ai mà biết đủ là người giàu sang

Ai thành tín là bạn vàng

Và nơi cực lạc: Niết Bàn là đây.

 

     4. Đạo đế: Đạo” là con đường, là phương pháp thực hiện dẫn đến chấm dứt khổ đau. Đức Phật dạy cho chúng sinh một con đường chắc chắn để đi đến Niết Bàn. Như vậy, toàn bộ giáo lý mà Đức Phật đã dạy đều là Đạo đế. Con đường ấy gọi là Bát Chánh Đạo (Tám thánh đạo) được coi là tiêu biểu và căn bản nhất của Đạo đế.

 

(Pháp Cú 274)

Con đường duy nhất dẫn vào

Đâu còn tìm được đường nào khác hơn

Khiến cho thanh tịnh nhãn quan,

Các ngươi theo đúng lối vàng nói trên

Ma vương mê loạn ngay liền

Chẳng còn dục vọng gây phiền cho ngươi.   

     Bát Chánh Đạo là con đường “Trung Đạo” mà Đức Phật đã tìm ra để chứng ngộ Niết Bàn. Con đường gồm có tám điều chân chính, tám phương tiện mầu nhiệm mà người Phật tử phải làm: “Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm Chánh Định”. Đó là con đường giác ngộ duy nhứt. Đứng về mặt triết học, tám yếu tố ấy là tám trạng thái tinh thần (hay tâm sở) nằm trong tám loại tâm siêu thế có đối tượng là Niết Bàn.

     - Chánh kiến: là sự thấy, hiểu biết chân chánh hay nhận thức đúng, rõ ràng như thật. Nhận thức đúng về đạo đức của cuộc sống, cái nào là thiện, cái nào là ác. Nhận biết về bản chất của sự vật đúng với sự thật, hợp với lẽ phải.

     - Chánh tư duy: Suy nghĩ đúng đắn, chân chánh và xét đoán sáng suốt, đúng với chân lý, không mê lầm. Do sự hiểu biết, cái nhìn chân chánh mà sự suy niệm hay ý nghĩ đúng đắn phát sinh.

     - Chánh ngữ: Ngôn ngữ đúng đắn, nghĩa là không nói những lời vọng ngữ, ác khẩu, hai lưỡi đưa đến đau khổ, chia rẽ, hung bạo, căm thù. Nói những lời lẽ chân thật, êm ái, chính đáng, hiền hòa đưa đến xây dựng niềm tin, đoàn kết hòa hợp, thương yêu và lợi ích, những lời hợp với Chân, Thiện, Mỹ. Lại còn đem phương tiện mà giáo hóa người.

     - Chánh nghiệp: Hành vi đúng đắn, làm việc chân chánh có mục đích lành mạnh, vừa lợi ích cho mình, vừa lợi ích cho người và vật khác.

     - Chánh mạng: Đời sống đúng đắn, trong sạch nghĩa là phương tiện mưu sinh, nghề nghiệp chân chánh, không sống bằng những nghề phi pháp, độc ác, gian xảo dễ gây ra ác nghiệp.

     - Chánh tinh tấn: Nỗ lực đúng đắn, siêng năng chuyên cần, cố gắng hết sức bằng tất cả nghị lực bản thân để đoạn trừ điều ác, thực hành điều thiện. Diệt trừ phiền não và tạo dựng đức lành.

     - Chánh niệm: Nhớ nghĩ đúng đắn, tưởng nhớ chân chánh. Nhớ những việc chân chánh đã làm, quán tưởng những việc chân chánh hiện tại và sẽ làm, để suy nghĩ và hành động cho hợp với lẽ phải, để diệt trừ những ý tưởng sai quấy và phòng ngừa những việc làm sai lầm.

     - Chánh định: Tập trung tư tưởng đúng đắn, định tâm chân chánh, nghĩa là đừng để tâm thức bị rối loạn, tập trung tư tưởng làm an tịnh tâm thức một cách đúng đắn, có hiệu quả phát triển tuệ giác.

     Theo Đức Phật thời “Bát Chánh Đạo” là con đường duy nhất để chấm dứt mọi đau khổ:

(Pháp Cú 275)

Thuận tu theo chánh đạo rồi

Bao nhiêu khổ não tức thời tiêu tan,

Sau khi chứng ngộ đạo vàng

Biết phương cách diệt vô vàn chông gai

Diệt bao chướng ngại hại người

Ta nay truyền dạy các ngươi con đường.

 

     Giáo lý “Tứ Diệu Đế” vừa là phương tiện, vừa là cứu cánh. Một giáo lý hoàn chỉnh đầy tính nhân bản đem lại niềm tin, sức sống cho con người, xã hội. Đặc tính của giáo lý “Tứ Diệu Đế” là con đường Trung Đạo, không rơi vào cực đoan hưởng thụ dục lạc hay khổ hạnh ép xác. Giáo lý “Tứ Diệu Đế” bao hàm tất cả các giáo pháp mà Đức Phật đã dạy, có thể thực hành cho người xuất gia cũng như tại gia, ai cũng tu tập được, ai cũng có thể nếm hương vị giải thoát, đáp ứng được nhu cầu thoát khổ cho cá nhân và chuyển hóa xã hội.

 

     Đức Phật dạy rằng chẳng phải vì bện tóc, chẳng phải vì gia tộc, cũng chẳng phải tại nơi sinh trong một giai cấp nào mà trở thành Bà La Môn. Nhưng ai hiểu biết chân thật “Tứ Diệu Đế”, thông đạt chánh pháp, đó là kẻ Bà La Môn:

 

(Pháp Cú 393)

Mệnh danh là Bà La Môn

Nào vì bện tóc ở luôn trên đầu

Nào vì chủng tộc mình đâu

Cũng không vì đã dựa vào nơi sinh,

Riêng ai hiểu biết thật tình

“Bốn điều Chân Lý” tâm thành nhận ra

Tinh thông “Chánh Pháp” Phật Đà

Và luôn thanh tịnh, là Bà La Môn

 

     Nhân có hai người cãi nhau vì ai cũng cho là con bò của mình mạnh hơn. Để tranh hơn thua, hai người chất cát và đá đầy xe rồi bắt bò kéo. Xe không nhúc nhích mà dây thừng đều đứt. Các vị Tỳ kheo nhìn thấy về bạch lại với Đức Phật. Đức Phật khuyên các thầy nên tận diệt những dây thừng của tâm mình để trở thành người đã giác ngộ. Người giác ngộ là người thấu triệt “Tứ Diệu Đế”: 

 

 (Pháp Cú 398)

Bỏ đai da sân hận đi

Bỏ cương luyến ái chớ hề vấn vương

Bỏ dây tà kiến lầm đường

Bỏ đồ phụ thuộc buộc ràng quẩn quanh

Bỏ đi cây trục vô minh

“Bốn điều Chân Lý” thật tình hiểu ra

Con người giác ngộ tiến xa

Xứng danh tên gọi là Bà La Môn.

 

     Bà La Môn trong hai câu Pháp Cú 393 và 398 trên đây là tiếng chỉ chung người đạo hạnh thanh tịnh chứ không theo nghĩa thông thường để chỉ giai cấp đạo sĩ Bà La Môn.

 

__________________________________

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/12/2022(Xem: 2093)
Được sự thương tưởng và hỗ trợ của chư Tôn đức và quí vị thiện hữu hảo tâm, chúng con, chúng tôi vừa thực hiện xong 9 giếng cần giục (Well hand-pump) cho những ngôi làng nghèo lân cận vùng núi Khổ Hạnh Lâm & các làng ven quốc lộ từ Bodhgaya đi Varanasi, tiểu bang Bihar India .
10/12/2022(Xem: 4125)
Kính chia sẻ cùng chư Tôn Đức, chư pháp lữ, và quí thiện hữu một số hình ảnh trong mùa Tipitaka (Đại Tạng Kinh PaLi) khai hội tại Bồ Đề Đạo Tràng. Đây là lần thứ 17 trùng tụng Tipitaka theo thông lệ hàng năm. Lễ hội quan trọng năm 2022 này do Phật Giáo Việt Nam đăng cai tổ chức nên tất cả mọi trần thiết, trang hoàng đều do Ban tổ chức Hội trùng tụng Kinh tạng Pali VN thực hiện, nổi bật nhất là cổng chào với hình ảnh hoa tươi rực rỡ “Lưỡng Long chầu Pháp Luân” rất đẹp mắt, khiến ai ai cũng trầm trồ ngợi khen và tán dương công đức. Lễ hội trùng tụng Tipitaka năm nay có các nước Phật Giáo tham gia trùng tụng Đại Tạng như: Nepal, Sri-Lanka, Lao, Campuchia, ThaiLand, Myanmar, Việt Nam, Bangladesh, India, International...Chương trình được khai mạc trang trọng vào ngày 2 tháng 12 cho đến ngày 12/12/2022 là bế mạc, với gần 5000 người tham dự . Nguyện cầu tiếng kinh này vang vọng đến ba ngàn thế giới khiến chúng sanh vạn loài thảy đều nghe ba nghiệp từ đó được thanh tịnh. Và xin nguyện
03/12/2022(Xem: 1323)
Loạt bài "Tiếng Việt từ TK 17" đã đề cập đến một số cách dùng Hán Việt đặc biệt như sinh thì (~qua đời, chết), Kinh Tại Thiên, Kinh Tin Kính, Kinh Thiên Chúa, lịch sự, thượng hoà hạ mục, thượng phụ, trung phụ, hạ phụ, thượng đế, thiên chủ/chúa2 ...v.v…Phần 37 này bàn thêm về cách dùng một số từ Hán Việt thời LM de Rhodes đến truyền đạo: sự (~thờ) 事, thửa (~ sở) 所, kì 其, giao cảm 交感, tinh thần 星晨, đang/đương thì 當時, củ thủ 糾手, thiểu ngữ 少語. Đây là lần đầu tiên cách dùng này hiện diện trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh/Bồ (chữ quốc ngữ). Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&
25/11/2022(Xem: 1663)
Lời mở đầu của người chuyển ngữ Bài kinh Kevaṭṭa-Sutta là một bài kinh dài giảng cho một người thế tục trẻ tuổi tên là Kevaṭṭa khi người này đến xin Đức Phật chỉ định một vị tỳ-kheo trong Tăng đoàn thực thi các phép lạ để thu phục được nhiều người hơn. Thế nhưng Đức Phật khẳng định là Ngài không hề dạy các tỳ-kheo của mình làm phép lạ, mà chỉ giảng dạy họ phải làm thế nào để biến mình từ một con người bình dị trở thành một con người cao quý hơn, đưa mình đến sự Giải thoát cuối cùng và sự Giác ngộ tối thượng. Sự giảng và học hỏi đó tự nó cũng đã là một phép lạ. Đấy là nội dung của toàn bộ bài kinh, và cũng là "kim chỉ nam" giúp chúng ta theo dõi bài kinh rất phong phú, khúc triết, nhưng cũng rất phức tạp này.
25/11/2022(Xem: 4021)
Hành Hương Thắp Sáng Tâm Đăng và Cảm niệm Thâm Ân Đức Thế Tôn VỊ THẦY VĨ ĐẠI BẬC NHẤT CỦA NHÂN LOẠI. Suốt tuổi vị thành niên ưu tư, trăn trở, đến tuổi lập gia đình thấy mọi niềm vui, khoái lạc đều phù du, trống rỗng; tháng năm dài tìm cách giúp vua, cứu nước, Thái Tử Siddhārtha Gotama luôn cảm thấy mình làm cái việc của con dã tràng xe cát - vì không giải mã được hố thẳm của lòng người (nguyên nhân của khổ uẩn). Với ý chí kiên định, ngài thoát ly gia đình, vợ con, vương vị, quyết tìm ra con đường thoát khổ, giải trình giá trị và ý nghĩa vĩnh cửu cho kiếp nhân sinh.
22/10/2022(Xem: 2705)
Chia sẻ hình ảnh của Khóa tu nhân Lễ Vía Đức Bồ Tát Quan Âm tại Chùa Pháp Hoa Seattle Washington State do Ni Sư Thích Hạnh Nguyện và chư Đạo hữu Tịnh Thanh, Trí Tín tổ chức. Xin thành tâm cảm niệm tất cả chư Tôn Đức Tăng Ni, chư thiện hữu, Phật tử đã nhiệt tâm hỗ trợ cho Khóa tu được thành tựu viên mãn và giai đại hoan hỷ...
12/10/2022(Xem: 1538)
Xin có lời tâm sự, rằng trong lòng tôi vẫn luôn luôn là một đứa trẻ rất mực ngây thơ, nghĩa là, chưa bao giờ lớn cả. Nói cho đúng, tôi đã lớn dậy giữa rừng văn học cổ tích quê nhà, đã say mê đọc truyện cổ về những vị Bụt bay tới khi có ai đó gặp nạn và ngồi than khóc, đã miệt mài với những thần thoại tuyệt vời trong Kinh Phật… Và rồi, tôi tin rằng Đức Phật không bao giờ rời bỏ chúng sinh.
30/09/2022(Xem: 2925)
Nam Mô Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát Kính quý thiện hữu ''Sứ giả Từ Bi'' Đạo Tràng Kim Đài - CA Xin tường trình cùng Đại chúng. Tánh Tuệ vừa hoàn tất 8 giếng nước do quí Thiện hữu bố thí cho dân nghèo xứ Phật và vẫn Continue hoàn tất những giếng nước khác do quí thiện hữu phat tâm.
25/09/2022(Xem: 3490)
Thấm thoát đã đến Giỗ Trăm Ngày Cố Sa Di Ni Bồ Tát Giới Thích Nữ Hoa Khai danh Không Ngại Thân mẫu Trụ Trì tại Quan Âm
21/09/2022(Xem: 2561)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật Chân Tâm chính là gia bảo Tâm, chẳng lẽ không quý trọng hơn tiền tài, vật chất sao? Bởi không có tâm thì ai đặt lên vật chất những giá trị? Tâm là bà mẹ sinh ra những đứa con (vật chất), nhưng phần nhiều con người ta thà vì tiền tài danh lợi mà phụ rẫy bản tâm, mà khiến cho tâm tổn thương chảy máu. - Quả báo của tất cả hạnh phúc, xuất phát từ Tâm. Sự trừng phạt của tất cả khổ đau, cũng bắt nguồn từ Tâm.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567