Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Malaysia: Cổ vật Phật giáo tại Thung lũng Bujang

27/05/202014:56(Xem: 5328)
Malaysia: Cổ vật Phật giáo tại Thung lũng Bujang

Malaysia: Cổ vật Phật giáo tại Thung lũng Bujang

 (Buddhist antiquity in Bujang)

 

Malaysia Cổ vật Phật giáo tại Thung lũng Bujang-1

Hình 1:

 

Năm nay đánh dấu kỷ niệm 40 năm, kể từ khi Khánh thành Bảo tàng Khảo cổ Thung lũng Bujang (the Bujang Valley Archaeological Museum), tọa lạc tại Merbok, Kedah, một bang phía tây bắc của Bán đảo Malaysia.

 

Sau khi Đế quốc Anh tiếp quản chính quyền Kedah vào năm 1911, các nhà khảo sát thuộc địa đã ngạc nhiên khi phát hiện ra nhiều di tích của các cấu trúc tự viện Phật giáo bằng đá và gạch tại bang này, cho thấy ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ, có thứ từ đầu thế kỷ thứ 5 sau kỷ nguyên Tây lịch. Những cổ vật này nằm rải rác trong một khu vực kéo dài từ chân đồi phía nam Gunung Jerai (đỉnh Kedah) đến sông Merbok, quận Kuala Muda, thuộc bang Kedah của Malaysia. Vùng đất rộng 225 km² được gọi là Thung lũng Bujang, và cho đến nay, đây là địa điểm khảo cổ phong phú nhất được phát hiện tại Maylaysia.

 

Từ những thập niên 1930 đến 1970 của thế kỷ 20, nghiên cứu Thung lũng Bujang, chủ yếu được thực hiện bởi các nhà khảo cổ học phương Tây, bao gồm cố vấn cho Rama VI và Rama VII của Xiêm (Thái Lan) từ năm 1924 đến 1928, HG Quaritch Wales (1900-1981), tiểu thuyết gia người Wales đầu thế kỷ 20,  Dorothy Wales (1902-1934) và nhà Sử học ngoại giao Alastair Lamb. Sau những thập niên 1970, các nhà khảo cổ địa phương như Giáo sư Nik Hassan Suhaimi đã dẫn đầu với sự hỗ trợ mạnh mẽ của Chính phủ Malaysia. Các địa điểm khảo cổ đã được khai quật và thậm chí một số còn được xây dựng lại bởi các nhà nghiên cứu từ Đại học Kebansaan Malaysia, và được Đại học Malaya phối hợp với Bộ Bảo tàng và Cổ vật.

 Malaysia Cổ vật Phật giáo tại Thung lũng Bujang-2

Hình 2: Một số đền thờ đạo Hindu và tự viện Phật giáo cổ đại đã được phục dựng lại trong  vùng lân cận của Bảo tàng.

 Malaysia Cổ vật Phật giáo tại Thung lũng Bujang-3

Hình 3: Các di vật được tìm thấy ở Thung lũng Bujang, hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng Khảo cổ học, được khánh thành bởi cố Quốc vương Kedah, Hoàng thân Hoàng gia Abdul Halim Mu'adzam Shah (1927– 2017, một vị vua đời thứ 14 củaMalaysia và Sultan thứ 27 và hiện tại của Kedah) vào năm 1980. Các hiện vật được trưng bày bao gồm các quan tài bằng đá và máy tính bảng, hạt thủy tinh, đồ trang trí, gốm sứ, gốm, tượng Phật và các biểu tượng Ấn Độ giáo.

 Malaysia Cổ vật Phật giáo tại Thung lũng Bujang-4

Hình 4: Sa bàn không gian 3 chiều của địa hình Bujang Valley chào đón du khách tại phòng trưng bày lối vào của Bảo tàng.

 Malaysia Cổ vật Phật giáo tại Thung lũng Bujang-5

Hinh 5: Bảo tàng nhỏ trưng bày các bản đồ thông tin, sơ đồ và đồ tạo tác được quan tâm trong nghiên cứu về ảnh hưởng của Ấn Độ thời kỳ đầu ở Đông Nam Á. Họ cũng đã ghi nhận sự trỗi dậy và sụp đổ của Srivijava (một liên minh kiểu mandala gồm nhiều nhà nước cổ từng tồn tại ở miền Đông Sumatra, bán đảo Malay và một phần đảo Borneo và Java, hình thành từ thế kỷ 7 hoặc thế kỷ 8 và kết thúc vào khoảng cuối thế kỷ 13) – đế chế hàng hải Phật giáo ưu việt của Đông Nam Á tồn tại từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ 12.

 

Từ đầu thế kỷ thứ nhất trước kỷ nguyên Tây lịch đến thế kỷ 11, Thung lũng Bujang đã là một thương cảng trung chuyển quan trọng cho các thương nhân Phật tử, khách hành hương và chư tôn tịnh đức tăng già truyền giáo. Vị cao tăng  học giả nổi tiếng Trung Hoa thời nhà Đường, Tam tạng Pháp sư Nghĩa Tịnh (義淨三藏法師, 635-713) đã từng chấn tích quang lâm vào năm 671 sau kỷ nguyên Tây lịch,  từ hành trình trên biển đến Đại học Phật giáo Nālandā, Ấn Độ. Ngài đã ghi lại chi tiết trong những chuyến đi của mình trong một tạp chí, sau đó đã có một ý tưởng cho các nhà sử học về tình hình chính trị ban đầu của Đông Nam Á như thế nào.

 Malaysia Cổ vật Phật giáo tại Thung lũng Bujang-6

Hình 6: Bảo tàng khảo cổ trưng bày một số đồ tạo tác thú vị, bao gồm tượng Phật bằng đất nung nổi tiếng được tìm thấy tại Kedah, có niên đại từ  thế kỷ thứ 5 sau kỷ nguyên Tây lịch.

 Malaysia Cổ vật Phật giáo tại Thung lũng Bujang-6

Hình 7: Các trụ cột làm bằng đá được trưng bày trong một góc tại Bảo tàng nhỏ nhưng nhiều thông tin.

 Malaysia Cổ vật Phật giáo tại Thung lũng Bujang-7

Hình 8: Những  chiếc quan tài bằng đá và một bản sao của bản khắc kinh điển Phật giáo nổi tiếng.

 

Khi nào các bạn có cơ hội đến phía bắc Kedah, hãy ghé qua Bảo tàng Khảo cổ Thung lũng Bujang, Merbok để thưởng lãm một số đồ tạo tác thú vị được lưu giữ tại đây, bao gồm các pho tượng Phật bằng đất nung nổi tiếng được tìm thấy ở Kedah vào thế kỷ thứ 5 sau kỷ nguyên Tây lịch. Ngoài ra, còn một số nơi cần tham quan là một trong những địa điểm khai quật khảo cổ quan trọng nhất ở Sungai Batu nằm cách đó khoảng 6km, nơi có bảo tháp hai nghìn năm tuổi được phát hiện vào năm 2008.

 

Là Phật tử ở Maylaysia nên tự hào khi biết rằng, ánh đạo vàng từ bi trí tuệ, đạo nhiệm mầu và hạnh đức Như Lai đã từng xuất hiện tại hòn đảo này cách đây hai thiên niên kỷ. do đó, nhiệm vụ của chúng tôi là phải biết những sự thật này, và ghi chép lại lịch sử đúng đắn vì lợi ích của các thế hệ người Malaysia hiện tại và tương lai.

 Malaysia Cổ vật Phật giáo tại Thung lũng Bujang-8

Hình 8: Một trong những gian nhà được tìm thấy trong khu phức hợp của Bảo tàng; tất cả các gian trưng bày được đặt theo tên cổ vật của bang Kedah với tên là Kal Kalamam.

 

Lip:

 

Bujang Valley Archaeological Museum & Site | 3sixty

https://www.youtube.com/watch?v=H5KIGS0e-D4

 

Thích Vân Phong biên dịch

(Nguồn: Nalanda Buddhist Society Malaysia)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/05/2021(Xem: 12834)
Nhận xét rằng, Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh gấp của lịch sử nhân loại. Đại dịch Covid-19 đã khép kín mỗi cá nhân trong một không gian chật hẹp, cách ly xã hội, cô lập cá nhân, cách ly cả những người thân yêu. Nó đã tạo ra những khủng hoảng tâm lý trầm trọng trong nhiều thành phần xã hội. Một số đông bị quẫn bức, không thể tự kềm chế, bỗng chốc trở thành con người bạo lực, gieo kinh hoàng cho xã hội. Một số khác, có lẽ là số ít, mà phần lớn trong đó là thanh thiếu niên, khởi đầu cũng chất đầy oán hận trong lòng, nhưng rồi trước ngưỡng sinh tử sự đại, tự mình phấn đấu tự kềm chế, cuối cùng đã khám phá chính mình, trong trình độ nào đó, với những giá trị nhân sinh chỉ có thể tìm thấy trong những cơn tư duy thầm lặng. Giá trị nhân sinh không thể tìm thấy bằng những cao trào kích động của tuổi trẻ. Thế hệ ấy sẽ làm thay đổi hướng đi của lịch sử Đông Tây qua hai nghìn năm kỷ nguyên văn minh Cơ-đốc, khi mà tín đồ có thể liên hệ trực tiếp với đấng Chí Tôn của mình qua mạng truyền
15/05/2021(Xem: 5652)
Phần này bàn về niên hiệu Long Thái và chúa Khánh ở Cao Bằng vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các danh từ như vậy được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "Chúa Thao cổ truyện" và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
15/05/2021(Xem: 5152)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5354)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4707)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4395)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4939)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4437)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3848)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 7104)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]