Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Trưởng lão Cư sĩ David Robert Loy, một trong những người mang Phật giáo Hòa nhập vào Thế giới Hiện đại

25/05/202020:46(Xem: 13019)
Trưởng lão Cư sĩ David Robert Loy, một trong những người mang Phật giáo Hòa nhập vào Thế giới Hiện đại

Trưởng lão Cư sĩ David Robert Loy, một trong những người mang Phật giáo Hòa nhập vào Thế giới Hiện đại

 Trưởng  lão Cư sĩ David Robert Loy

Trưởng  lão Cư sĩ David Robert Loy (sinh năm 1947), vị học giả người Mỹ, Giáo sư, tác gia, Giáo thọ Thiền Phật giáo thuộc Tam Bảo giáo (Sanbō Kyōdan, 三寶教), truyền thống Phật giáo Nhật Bản.

      

Trưởng lão Cư sĩ David Robert chào đời tại Panama, khu vực kênh đào, (Đại bản doanh của Bộ Tư lệnh Phương Nam của quân đội Mỹ). Thân phụ của ông trong đơn vị Hải Quân Hoa Kỳ nên gia đình được đi du lịch rất nhiều. Thuở nhỏ, ông học trường Carleton College, Minnesota, một tiểu bang vùng Trung Tây của Hoa Kỳ, và sau đó du học khoa triết học tại trường King's College London (informally King's or KCL), Vương quốc Anh.

 

1969, sau khi tốt nghiệp, ông chuyển về San Francisco và sau đó đến Hawaii, nơi ông bắt đầu tu học thiền Phật giáo Nhật Bản.

 

Năm 1971, ông bắt đầu thực hành thiền dưới sự hướng dẫn của Đại sư Yamada Kōun (山田 耕雲, 1907—1989) thuộc thuộc Tam Bảo giáo (Sanbō Kyōdan, 三寶教) ở  Hawaii, một chi phái của dòng thiền Tào Động Phật giáo Nhật Bản.

 

Năm 1984, ông đến Kamakura, Nhật Bản tiếp tục học Thiền cho đến năm 1988 thì thực sự hoàn tất việc tu tập và được Đại sư Yamada Kōun ban pháp hiệu Trí Tuệ Vân (Wisdom Cloud, 智慧雲).

 

Sự tập trung nghiên cứu chính của Trưởng lão Cư sĩ David Robert là cuộc đối thoại giữa Phật giáo và hiện đại, đặc biệt là ý nghĩa trong vận dụng giáo lý từ bi trí tuệ đạo Phật thực tiễn trong đời sống xã hội. Ngoài các bài giảng về học thuật, ông còn cung cấp các cho các  buổi hội thảo và hướng dẫn các khóa tu tập thiền tại Hoa Kỳ và quốc tế.

 

Trưởng lão Cư sĩ David Robert nhận bằng Thạc sĩ Triết học châu Á từ Đại học Hawaii năm 1975 và bằng Tiến sĩ Triết học năm 1984 từ Đại học Quốc gia Singapore.

 

Ông là trợ giảng cao cấp tại Khoa Triết học của Đại học Singapore từ những thập niên 1978-1984. Nghiên cứu chính của ông là So sánh Triết học (Đông-Tây), đặc biệt là đưa quan điểm của Phật giáo vào các vấn đề xã hội đương thời như khủng bố và bạo lực, phục hồi công lý, kinh tế và toàn cầu hóa, công nghệ sinh học, khủng hoảng môi trường, và cuộc đụng độ giữa các nền văn minh.

 

Năm 1990, Trưởng lão Cư sĩ David Robert được bổ nhiệm Giáo sư khoa Triết học và Tôn giáo tại Dại học Bunkyo, Chigasaki, Nhật Bản cho đến tháng 1 năm 2006, khi ông đảm nhận Chủ tịch Đạo đức/Tôn giáo & Xã hội (the Besl Family Chair of Ethics/Religion & Society), hợp tác với Đại học Xavier (Xavier University) thành phố Cincinnati, bang Ohio, Hoa Kỳ và đã kết thúc vào tháng 9 năm 2010.

 

Ông được coi là nhân vật có thẩm quyền trong việc đưa Phật giáo hòa nhập vào thế giới hiện đại. Ông là tác giả nhiều tác phẩm nổi tiếng viết về Phật giáo. Về mặt học thuật, ông tốt nghiệp Carleton College, một ngôi trường nổi tiếng về khoa học nhân văn. Năm 2014, ông được trường này trao tặng bằng Tiến sĩ Danh dự, nhưng đến tháng Tư năm 2016, ông đã tuyên bố trả lại học vị danh dự này vì trường Carleton College tiếp tục duy trì khoản đầu tư của trường trong các quỹ đầu tư vào ngành khai thác dầu mỏ.

 

Trưởng lão Cư sĩ David Robert, Giáo sư chuyên khoa Phật giáo và So sánh Triết học (Buddhist and comparative philosophy) cung cấp các bài giảng, hội thảo và các khóa tu học Phật pháp với các chủ đề khác nhau, tập trung chủ yếu vào giao lưu giữa Phật giáo và Hiện đại: những gì mỗi người có thể học hỏi với nhau. Đặc biệt, ông quan tâm đến các vấn để xã hội và sinh thái.

 

Ngoài nhiều bài viết về học thuật và các bài báo phổ biến, Trưởng lão Cư sĩ David Robert là tác giả của một số tác phẩm so sánh triết học và đạo đức xã hội, bao gồm:

 

- Nonduality: A Study in Comparative Philosophy (New Haven, Conn: Nhà xuất bản Đại học Yale, 1988). Một Ấn bản bìa mềm được xuất bản bởi báo Open Humanities Press vào năm 1997. Một ấn bản tiếng Đức (bản dịch của Clemens Wilhelm) đã được xuất bản với tên Nondualität: Über die Natur der Wirklichkeit của Krüger, Frankfurt, năm 1998. Một phiên bản tiếng Tây Ban Nha (bản dịch của Fernando Mora và David Gonzalez Raga) được xuất bản dưới dạng No dualidad của Kairos Press năm 2000. Được đánh giá bởi Robert Zeuschner và Karl H. Potter.

 

- Lack and Transcendence: The Problem of Death and Life in Psychotherapy, Existentialism, and Buddhism (Atlantic Highlands, New Jersey: bởi báo Open Humanities Press vào năm 1996. Được trao giải thưởng sách Frederick J. Streng năm 1999 của Hiệp hội Nghiên cứu Phật giáo-Thiên Chúa giáo, cho cuốn sách hay nhất trong năm. Một ấn bản bìa mềm đã được xuất bản bởi báo Open Humanities Press vào năm 2000.

 

- A Buddhist History of the West: Studies in Lack (SUNY Press, 2002).

 

- The Great Awakening: A Buddhist Social Theory (Bostn: Ấn phẩm Wisdom 2003). Một ấn bản tiếng Tây Ban Nha (bản dịch của Vicente merlo) đã được xuất bản với tên EI Gran Despertar: Una teoria social budista của Kairos Pree năm 2004. Một bản dịch tiếng Tiệp Khắc đã được xuất bản dưới dạng Velke Probuzeni bởi Eugenia Press năm 2006.

 

- The Dharma of Dragons and Daemons: Buddhist Themes in Modern Fantasy (Bostn: Ấn phẩm Wisdom 2004). Đồng tác giả với phu nhân, nữ cư sĩ Linda Goodhew. Chung kết giải thưởng học bổng huyền thoại năm 2006 về Nghiên cứu thần thoại và giả tưởng.

 

- Money, Sex, War, Karma: Notes for a Buddhist Revolution (Ấn phẩm phẩm Wisdom 2008). Dịch và xuất bản các thứ tiếng Spanish, Italian, French, Dutch, Korean, Thai, Japanese, and Estonian.

 

- Awareness Bound and Unbound: Buddhist Essays (SUNY Press, 2009).

 

- The World Is Made of Stories (Ấn phẩm Wisdom, 2010).

 

- A New Buddhist Path: Enlightenment, Evolution, and Ethics in the Modern World (Ấn phẩm Wisdom, 2015).

 

- Ecodharma: Buddhist Teachings for the Ecological Crisis (Ấn bản Wisdom, 2019).

 

Lip:

 

David Loy: Why Buddhism and the Modern World Need Each Other

https://www.facebook.com/VillageZendo/videos/david-loy-why-buddhism-and-the-modern-world-need-each-other/2511706025544756/

https://www.youtube.com/watch?time_continue=29&v=pIUti1-RPYE&feature=emb_logo

https://www.youtube.com/watch?v=1-CmYEyhzV4&feature=emb_logo

Thích Vân Phong biên dịch

(Nguồn: David Loy)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/10/2014(Xem: 8438)
Hồi Thầy mới vào chùa năm 16 tuổi, trên phương diện danh từ thì mình đã được gọi Bụt Sakyamuni là Bổn Sư (Nam Mô Đức Bổn Sư Bụt Sakyamuni). Bổn Sư (tiếng Bắc là Bản Sư) có nghĩa là Thầy tôi. Nhưng kỳ thực đức Bụt mà mình được gặp khi mới vô chùa không phải là một vị Thầy đích thực mà là một nhân vật rất huyền thoại, đầy phép lạ, đầy thần thông, rất xa cách với con người. Mình không được gặp Bụt của đạo Bụt nguyên thủy mà cũng không được gặp Bụt của đạo Bụt tiểu thừa. Hình ảnh Bụt nguyên thủy là một vị Thầy ăn mặc rất đơn sơ, trải bồ đoàn tọa cụ ngồi trên đất, ngồi pháp đàm, nói pháp thoại và ăn cơm với các Thầy. Mình không gặp được hình ảnh đó, vì vậy trên phương diện danh từ mình được gọi là Thầy tôi nhưng kỳ thực giữa mình với đức Sakyamuni có một khoảng cách rất lớn. Đó là một nhân vật hoàn toàn thần thoại, đầy phép lạ.
31/10/2014(Xem: 8311)
Pháp môn mà mình nói tới đó là pháp môn xây dựng tăng thân, được gọi tắt làdựng tăng. Đó cũng là công trình của Bụt, đó là sự nghiệp của Bụt. Ngay sau khi thành đạo, Bụt đã biết rất rõ rằng nếu không xây dựng được một tăng thân thì mình không thể nào thực hiện được sự nghiệp của một vị Bụt. Vì vậy Ngài đã để ra rất nhiều thì giờ và công sức để xây dựng một tăng thân. Ngay trong năm đầu sau khi thành đạo, Bụt đã xây dựng một tăng thân xuất gia gồm có 1250 vị, và tăng thân này đầu tiên xuất hiện tại một rừng kè ở ngoại ô thành phố Rajagraha. Năm Ngài 80 tuổi, Vua Prasenajit (Ba Tư Nặc) có nói một câu rất hay để ca ngợi Bụt về công trình xây dựng tăng thân ấy. Vua nói: Bạch đức Thế Tôn, mỗi lần con thấy tăng thân của đức Thế Tôn là con lại có niềm tin nhiều hơn ở nơi chính đức Thế Tôn.
31/10/2014(Xem: 7720)
Mùa Xuân ta lên núi Hăm hở làm sơn ̣̣đồng Bỏ con đường khói bụi Cho sách vở vời trông... Rời mái trường Vạn Hạnh, còn đang lang thang dạy giờ ở các trường Bồ-đề, ngong ngóng một xuất học bỗng du học, tôi bất ngờ bị Sư Bà áp giải lên núi, sau lời phán quyết chắc nịch: “Con phải học một khóa tu Thiền ba năm với Thượng Tọa, xong rồi muốn đi đâu cũng ̣̣được... Còn bây giờ, dứt khoát là…Không!”.
28/10/2014(Xem: 8045)
Có những gì cần phải sửa trong Kinh Phật hay không? Có những gì cần phải cắt bớt khỏi Kinh Phật, hay cần phải bổ túc thêm cho Kinh Phật hay không? Câu trả lời tất nhiên không dễ. Vì người xưa đã nói, nếu chấp vào nghĩa từng chữ một, có thể sẽ hiểu nhầm ý của Phật; nhưng nếu rời kinh một chữ, lại hệt như lời ma nói. Nguyên văn: Y kinh giải nghĩa, tam thế Phật oan; ly kinh nhất tự, tức đồng ma thuyết.
26/10/2014(Xem: 9491)
Gió mùa thu năm nay, trở nên khô khốc, ảnh hưởng bởi nạn hạn hán trầm trọng nhất trong nhiều thập kỷ qua ở xứ này. Nhưng đâu đó trên hành tinh, mưa thu lất phất bay, và gió thu se sắt gợi buồn; cũng có nơi mưa ngập cả các con lộ chính của thành phố lớn để người và xe cộ phải lội bì bõm trong giòng nước ngầu đục. Và chỗ nọ, chỗ kia, làn gió dân chủ, hòa bình, khơi niềm hứng cảm cho sự vươn dậy của ý thức tự do, khai phóng.
24/10/2014(Xem: 15103)
Một kỷ nguyên mới canh tân kỹ thuật đang lan tràn khắp thế giới và đang tiến đến trưởng thành, đó là mạng lưới thông tin toàn cầu internet (world wide web), một hệ thống truyền thông và môi trường học có sức mạnh. Không nên xem Internet chỉ là một phương tiện mới để truyền bá Giáo Pháp với một hình thức mới, mà Internet còn có tiềm năng là một căn cứ cho một cộng đồng Phật Giáo trên mạng (online) cống hiến những giá trị xã hội và tâm linh cho mọi người.
24/10/2014(Xem: 8666)
Chuyện kinh Phật kể rằng, tự ngàn xửa ngàn xưa, hằng hà sa kiếp trước, có con thỏ ngọc nọ thấy bầy đàn đang lúc giá rét cuối đông, chẳng kiếm được chút rau cỏ gì cho nguôi cơn đói bụng ; thỏ nọ liền “hưng khởi đại bi tâm” nhảy vào đám lửa đang cháy rực hồng, tự biến thân mình thành thịt nướng cho bầy đàn ăn đỡ đói. Khi bầy đàn thỏ no nê thì cũng là khi thân thỏ nọ chỉ còn sót lại mấy miểng xương đen. Phật biết đại bi tâm của thỏ từ đầu, bèn nhặt xương thỏ đem về cung quảng, phục sinh và đặt tên cho thỏ là NGỌC THỐ - có nghĩa là Thỏ Ngọc, một sinh thể có đại bi tâm quý như ngọc; thứ ngọc Phật từng nói đến trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Bấy giờ, cuộc đời thỏ ngọc ngày đêm yên ả nơi cung trăng, tự thân sớm hôm trau dồi công dung ngôn hạnh khiến biết bao người chung quanh nâng niu, thương yêu chiều chuộng.
23/10/2014(Xem: 13461)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia. Tuyển tập các bài viết này gồm ba mục đích chính: (i) Xóa bỏ mê tín dị đoan và các tập tục hủ lậu, (ii) Giới thiệu Phật pháp căn bản, giúp người đọc hiểu rõ các giá trị thiết thực của đạo Phật, (iii) Đính chính các ngộ nhận về các khái niệm thầy tu, giải thoát, giá trị trị liệu của thiền và bản chất hạnh phúc trong hiện tại. Dầu được viết trong nhiều thời điểm khác nhau cho nhiều đối tượng độc giả, tác giả chú trọng đến việc giới thiệu về hình thái đạo Phật nguyên chất, xây dựng niềm tin bằng lý trí, giới thiệu đạo Phật từ góc độ ứng dụng trong đời sống, so sánh những điểm dị biệt và sự vượt trội của đạo Phật đối với các truyền thống và tín ngưỡng khác.
23/10/2014(Xem: 8979)
Bằng cách này hay cách khác, Đức Phật luôn gợi nhắc cho chúng ta rằng mỗi người chúng ta đều sở hữu các khả năng và phẩm chất tốt đẹp, cần phải biết vận dụng và phát huy để làm cho cuộc sống trở nên giàu sang hiền thiện, tránh mọi khổ đau và để thực nghiệm hạnh phúc an lạc. Trong bài kinh Nghèo khổ thuộc Tăng Chi Bộ, Ngài đơn cử câu chuyện một người nghèo túng về của cải vật chất nhưng không biết cách nỗ lực khắc phục tình trạng nghèo khó của mình nên phải liên tiếp rơi vào các cảnh ngộ khó khăn để nhắc nhở chúng ta về các tai họa khổ đau mà chúng ta sẽ phải đối diện, nếu không biết nỗ lực nuôi dưỡng và phát huy các phẩm chất đạo đức và trí tuệ của mình.
23/10/2014(Xem: 10787)
Tục lệ, hay những lễ nghi đã trở thành thói quen, là văn hóa được ước định của một dân tộc. Sự hình thành tục lệ thường chịu ảnh hưởng của phong tục tập quán trong dân gian, hoặc do sự thực hành các tín ngưỡng tôn giáo lâu ngày của một cộng đồng. Sau khi truyền vào Trung Quốc, Phật giáo không chỉ đi sâu vào dân gian, hòa nhập với đời sống, từng bước hình thành nên một bộ quy phạm lễ nghi về “hôn táng hỷ khánh” (dựng vợ gả chồng, chôn cất người chết, thể hiện niềm vui, bày tỏ việc mừng); mà còn có tác dụng thay đổi phong tục đối với các thói quen dân gian mang đậm màu sắc mê tín trong các việc như: tổ chức hôn lễ rườm rà; đoán số mệnh dựa trên bát tự(1); miễn cưỡng tổ chức việc vui trong lúc gia đạo đang gặp rắc rối với mong muốn giải trừ vận xui, tà khí, chuyển nguy thành an, gọi là xung hỷ; thực hành tục minh hôn(2); duy trì lối khóc mộ; xem phong thủy…
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]