Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thuyết Luân Hồi Trong Đạo Phật

16/05/202013:54(Xem: 4296)
Thuyết Luân Hồi Trong Đạo Phật

THUYẾT LUÂN HỒI TRONG ĐẠO PHẬT

Thích Nữ Hằng Như
Vong_Luan_Hoi

-----------------------------------

I. DẪN NHẬP

Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa. Tình cảm sâu đậm mấy mươi năm do thói quen sống gần gũi, do những yêu thương chăm sóc lẫn nhau, do những thành công hay thất bại đều có người đó bên cạnh chung vai chia xẻ. Bây giờ người thân yêu đó đã dứt khoát ra đi, nghĩa là đã chết. Cái thân xác cứng đờ còn đó nhưng linh hồn sức sống của người đó biến đi đâu? Câu hỏi này ngày thường chúng ta ít nghĩ tới. Nhưng khi giáp mặt với sự kiện mất mát này thì câu hỏi đó khiến cho tâm trí chúng ta tràn ngập với bao thắc mắc phiền muộn lo âu. Để giải quyết vấn đề này, hôm nay chúng ta cùng nhau tìm hiểu xem con người từ đâu sanh ra và sau khi chết thì cuộc sống của con người có thực sự đã hoàn toàn chấm dứt,hay còn một ẩn khúc nào khác, qua chủ đề "Thuyết Luân Hồi Trong Đạo Phật".

 

II. THUYẾT LUÂN HỒI TRONG ĐẠO PHẬT

Luân hồi là cái gì? Nghĩa đen, luân là luân chuyển, xoay vần. Hồi là trở về, quay về.  Luân cũng có nghĩa là một vòng tròn, một bánh xe.

Luân hồi, tiếng Phạn là Samsàra, là sự xoay chuyển, sự lên xuống, sự tiếp diễn liên tục của những kiếp sống. Sự xoay chuyển liên tục này thường được biểu hiện bằng bánh xe (cakka) và được gọi là bánh xe luân hồi (samsaracakka).

Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một vòng trònmà sự sinh tử của con người luôn tiếp diễn trên vòng tròn đó không bao giờ dừng.  Và vì thế chúng ta sẽ không biết chỗ nào là điểm khởi đầu, cũng như chỗ nào là điểm kết thúc. Cứ như thế, bánh xe sinh tử ấy quay tròn và nhận chìm con người trong biển khổ đau từ đời này sang đời khác, cho đến khi nào con người tu tập đạt được ánh sáng giác ngộ tối hậu mới giải thoát khỏi vòng luân hồi này.

Trên thế giới, hầu hết các tín ngưỡng tôn giáo đều có đề cập đến luân hồi, nhưng quan niệm về luân hồi, mỗi tôn giáo mỗi khác. Riêng đối với Phật giáo, khi Đức Phật chứng ngộ ba minh: Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh, Lậu Tận Minh. Các Minh này đã giải đáp những câu hỏi của Đức Phật :“Con người từ đâu sanh ra và sau khi chết sẽ đi vềđâu?”. Nó cũng kiến giải cho biết nguyên nhân vì sao mà con người phải chịu luân hồi sanh tử.

Qua sự tự chứng này Đức Phật cũng ngộ ra rằng: Luân hồi vốn là một sự thật hiển nhiên, nó áp đặt lên tất cả chúng sanh không chừa một người nào. Sự kiện này không phải do Đức Phật suy nghĩ tưởng tượng ra mà do Ngài chứng ngộ nhìn thấy và biết nó hiện diện trên thế gian này từ vô thủy vô chung, trước cả khi ĐứcPhật ra đời.

Túc Mạng Minh là trí tuệ sáng suốt biết rõ vô lượng kiếp quá khứ của chính bản thân hiện tại của Ngài. Sự chứng ngộ này xác định đời sống của con người có luân hồi. Trong kinh Bổn Sanh có ghi Đức Phật đã thấy rõ, nhớ rõ vô số kiếp trước của Ngài, như Ngài là ai, từng sanh ra ở đâu và làm gì?

Thắc mắc "Do đâu mà có con người?" được giải đáp qua sự chứng ngộ Thiên Nhãn Minh rằng -- Con người sanh ra do Nghiệp lựctheo quy trình Tương Quan Nhân Quả-- Hễ có Nhân thì sẽ có Quả: “Cái này có cái kia có. Cái này sanh cái kia sanh. Cái này không cái kia không. Cái này diệt cái kia diệt.”

Thiên Nhãn Minh là mắt tuệ sáng suốt, thấy tường tận chi tiết về quá khứ và tương lai của chúng sanh. Ngài thấy chúng sanh chết ở chỗ này lại sanh ở chỗ kia trong sáu nẻo. Ngài thấy cảnh con người đi tái sanh rõ ràng tựa như người đang đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường thấy kẻ qua, người lại bên dưới. Như vậy, con người chết rồi không phải là hết, mà bị nghiệp dẫn đi thọ sanh trong lục đạo luân hồi.

Cũng trong đêm cuối cùng của tuần lễ thứ Tư, vào lúc canh Ba, dưới cội Bồ Đề, Đức Phật tiếp tục chứng được Lậu Tận Minh. Lậu là những thứ xấu xa ô nhiễm, là tham sân si, còn gọi là Nghiệp, là Nhân xấu hay tốt tích tụ từ nhiều đời trong tâm con người. Tận là chấm dứt. Nghĩa là Đức Phật biết rõ nguyên do nào khiến cho chúng sanh phải chịu luân hồi sanh tử. Nếu muốn được giải thoát khỏi luân hồi sinh tử phải tu tập diệt bỏ hoàn toàn lậu hoặc.

Tóm lại, do tâm hoàn toàn an định, trí huệ tâm linh phát sáng, nên Ngài nhớ được tất cả mọi việc trong vô số kiếp quá khứ. Những điều Đức Phật chứng ngộ đối với tâm trí người phàm phu khó mà thấu hiểu, nhưng chúng ta không thể không đặt niềm tin vào những lời dạy của Đức Phật, bởi từ hơn 2,600 năm về trước Đức Phật đã từng tuyên bố những điều mà mắt người thường không trông thấy, thế nhưng ngày nay Khoa học đã chứng minh được qua kính hiển vi. Ngài đã nói rằng trong ly nước có tám mươi bốn ngàn con vi trùng.  Về không gian, thì Ngài nói rằng ngoài không gian bao la kia có hằng hà sa số thế giới không thể kể hết được.

Sau này khi đi hoằng pháp, Đức Phật đã mang thuyết luân hồi ra giảng giải cho chúng sanh. Ngài thuyết rằng sở dĩ con người chịu cảnh luân hồi sinh tử hết đời này sang đời khác, là do họ tự gây ra, chứ không một thần linh hay thượng đế nào nhúng tay vào việc này. Những hành động, lời nói, ý nghĩ tốt hay xấu, những đam mê, ghiền nghiện tích tụ từ nhiều đời, nhiều kiếp theo cho tới đời nàyvẫn còn tiếp tục huân tập thêm, gọi chung là Nghiệp. Nghiệp đó chính là Nhân. Đã có Nhân thì sẽ trổ Quả. Chính vì vậy mà sau khi chết con người vẫn phải tái sanh để hưởng Quả tốt nhờ đã tạo Nhân lành ở đời trước, hay thọ Quả khổ vì đã tạo Nhân ác hay Nghiệp ác.

 

III. LUÂN HỒI KHÔNG PHẢI LÀ SỰ TƯỞNG TƯỢNG MÔNG LUNG.

Thuyết luân hồi bao trùm cả vũ trụ. Trong vũ trụ có con người, vạn vật. Nói chung là bất cứ thứ gì có mặt trên thế gian này đều bị nằm trong vòng quay của luân hồi.

Thí dụ như quả địa cầu khổng lồ đang xoay tròn quanh một cái trục trong không gian. Do sự xoay tròn này, phía nào của quả đất hướng về mặt trời là sáng, phiá bị khuất là tối. Cho nêntrần gian mới có sáng có tối, có ngày có đêm. Sự kiện này xảy ra liên tục từ hằng triệu-triệu năm nay chưa chấm dứt. Sự kiện xoay vần của trái đất từ sáng qua tối, từ tối qua sáng, không ngừng nghỉ, đó là sự luân hồi của ánh sáng và bóng tối hay ban ngày và ban đêm.

Do sự xê dịch lúc gần lúc xa của quả địa cầu đối với mặt trời,cho nên sức nóng của địa cầu chỗ này khác chỗ kia. Từ đó, người thế gian mới phân chia không gian sống của họ thành bốn mùa Xuân,Hạ, Thu, Đông. Sự thay đổi xoay vần của bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông luôn tiếp tục chưa bao giờ dừng lại, đó là sự luân hồi của bốn mùa.

Bàn về luân hồi của vạn vật, chúng ta thử nhìn chung, tất cả cây cối lớn nhỏ, núi đồi cao thấp, sông dài, biển rộng... mỗi mỗi đều không thoát khỏi luân hồi.  Như từ hạt xoài, hạt cam, hạt bưởi, hạt quýt, hạt thông... Hạt nào rơi xuống đất, khi đủ điều kiện sẽ nảy mầm thành cây con. Cây con lớn lên theo thời gian đủ sức sinh hoa, đậu trái. Trái chín, nếu người ta không thu hoạch, trái rơi xuống đất, hạt rời ra, và khi đủ duyên sẽ lại mọc thành một cây mới. Đó là đời sống luân hồi của cây.

Nước sông, sóng biển cũng thế. Nước là thể lỏng gặp sức nóng của mặt trời sẽ bốc hơi. Hơi gặp lạnh thành mây. Mây gặp gió rơi xuống thành nước. Nước lại bốc thành hơi.... Cứ như thế mà xoay vần, nên nước cũng có đời sống luân hồi của nước. 

Bàn về con người, chúng ta thấy luân hồi còn rõ ràng hơn nữa. Phật dạy con người gồm hai phần: Danh và Sắc. Sắc là vật chất. Danh là tinh thần, là tâm. Danh và tâm đều có đời sống luân hồi của nó. Chẳng hạn thân con người gồm 4 yếu tố kết hợp, đó là: Đất, nước, gió, lửa. Những loại cứng tương ứng với đất, gồm các chất cứng trong cơ thể như da, thịt (cơ bắp), gân, xương, tóc, lông, răng, móng ... Máu, mủ, mồ hôi, nước mắt, nước mủi... được xem như là nước. Hệ thống hô hấp hoạt động do ta hít không khí vào, thở ra bằng mũi hay bằng miệng tạo hơi gió. Thân thể con người lúc nào cũng ấm áp tương ứng với lửa.

Khi nào bốn thứ đất, nước, gió, lửa trong cơ thể con người không hài hoà thì con người bị bệnh, hoặc thiếu một thứ, con người không thể sống. Khi con người chết thì bốn thứ này cũng tan rã trở về với vũ trụ thiên nhiên bên ngoài không mất đi, nên đất, nước, gió, lửa tức phần vật chất, hay thân của con người, cũng có luân hồi của nó.

Còn về Danh hay tâm của con người,nhìn chung thì tâm thay đổi không ngừng nghỉ. Lúc thì vui vẻ, lúc thì buồn rầu, lúc thương lúc ghét, lúc hiền lành, lúc dữ tợn. Khi khởi tâm vui thì lúc đó là sanh, và khi hết vui thì gọi là diệt. Khởi niệm suy nghĩ là sanh, hết suy nghĩ là diệt. Cứ sinh rồi diệt, hết diệt rồi sinh. Trong nhà Phật trạng thái này gọi là tâm sinh diệt. Nói cách khác, chúng ta có thể xem đó là tâm luân hồi.

Nhìn chung, mọi hiện tượng thế gian họp tan là do duyên quyết định, khiến vạn vật thay đổi hình tướng hay trạng thái. Ví dụ nước do duyên nóng bốc thành hơi, gặp duyên lạnh đóng thành khối (nước đá). Sự biến thái này do duyên quyết định. Đối với con người, Đức Phật xác định con người bị luân hồi là do lậuhoặc. Lậu hoặc còn thì sanh tử còn. Lậu hoặc hết thì chấm dứt luân hồi sanh tử.

 

IV. LẬU HOẶC HAY NGHIỆPLÀ NGUYÊN NHÂN ĐƯA ĐẾN LUÂN HỒI

Lậu hoặc theo nghĩa trong nhà Phật là những chất ô nhiễm xấu xa, những đam mê ghiền nghiện, những suy nghĩ sai quấy đưa đến hành động hại mình hại người. Những thứ này huân tập trong tâm tưởng của con người từ nhiều đời nhiều kiếp, và đời này vẫn còn tiếp tục tạo thêm qua hành động từ thân miệng, ý. Những gì con người tạo ra dù thiện lành hay ác dữ… lâu ngày biến thành Nghiệp. Cho nên Nghiệp có hai loại: Thiện vàác.

- Nghiệp thiện:Là những điều suy nghĩ, lời nói, hành động mang lại an ổn vui vẻ cho mình và người. Giữ thân thanh tịnh bằng cách không sát sanh, hại người, hại vật. Không trộm cướp.  Không tà dâm. Giữ miệng lưỡi thanh tịnh làkhông nói dối, không nói lời ác độc, ly gián, thêu dệt v.v... Giữ Ý trong sạch là tâm không nghĩ xấu ác, không tham sân si.

- Nghiệp ác: Là có hành động, lời nói, ý nghĩ trái ngược với nghiệp thiện khiến tự mình chuốc lấy phiền não lo âu và tạo sự buồn phiền đau khổ cho người khác.

Nghiệp tự khái niệm trừu tượngkhông có hình dáng nhưng nócó khả năng lôi cuốn chúng ta đi khắp nẻo luân hồi. Càng tạo nhiều Nghiệp, tích trữ Nghiệp càng lâu, thì lực của Nghiệp càng mạnh, thuật ngữ gọi là Nghiệp lực.

Nghiệp lành hay dữ không tự nhiên có, mà do con người tạo nên, để cuối cùng con người không thể nào cưỡng lại sự dẫn dắt của Nghiệp để thọ Quả lành hay Quả dữtrong đời hiện tại, hoặc đời sau,hay bất cứ lúc nào khi đủ duyên Quả trổ.

 

V. SÁU CÕI LUÂN HỒI LÀ GÌ?

Hình ảnh sáu cõi luân hồi diễn tả sự tồn tại có điều kiện dẫn đến nơi mà chúng sanh sau khi chết phải đi tái sanh. Luân hồi là xoay tròn, tiếp nối lên xuống của mỗi chúng sanh trong sáu cõi. Khi tái sanh ở cõi này, khi đầu thai ở cõi khác, tiếp nối tử sinh, sinh tử không ngừng. Chỉ khi nào tu tập dẹp được lậu hoặc, chứng quả A-La-Hán thì mới thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử đó.Sáu cảnh giới thường được minh hoạ bởi Bánh Xe Sự Sống hay Vòng Luân Hồi gồm: Cõi Trời, A-tu-la, Người, Súc sinh, Ngạ quỷ, Địa ngục.

1. Cõi Trời: Trong truyền thống Phật giáo, cõi Trời là nơi cư trú của chư thiên, là những vị thần tiên có phép thuật, hình dáng oai nghiêm, nhẹ nhàng, xinh đẹp hơn con người. Cõi Trời là nơi thanh thoát an vui, không có sự lo buồn, tức giận, đau khổ hay chán chường. Các chư thiên này, đời trước là những con người sống thiện lương, làm nhiều điều tốt lành, tạo nhiều phước đức, tu niệm chân chánh, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh về cảnh giới này. Họ sống sung sướngchìm đắm trong cuộc sống an lạc không lo lắng gì cho ngày mai, bởi họ có quyền năng biến hóa, muốn gì được nấy. Cho nên các vị tiên này có khi quên hẳn việc tu hành phát triển tâm từ bi và trí tuệ của đời trước.

Trong kinh nói rằng cõi Trời rất rộng lớn và chia làm nhiều tầng, mỗi tầng ứng với mỗi cấp độ khác nhau về nghiệp lành. Như Hoàng hậu MahaMaya, sau khi sanh Thái Tử Tất-Đạt-Đa, nhờ đại phước báo sanh ra một vị Phật tương lai nên 7 ngày sau khi hạ sanh Thái tử, bà lìa bỏ thân người, thác sinh lên cung trời Đao Lợi. Một vị khác là Bồ tát Di-Lặc hiện đang ở trên cung trời Đâu Suất, chờ đủ nhân duyên sẽ xuống giáo hoá nơi cõi Ta Bà này. Trong kinh cũng cho biết Đức Phật Thích Ca, trước khi hạ phàm, ngài là Bồ Tát Hộ Minh ở cung trời Đâu Suất.

Chúng tiên không phải sống mãi ở cõi Trời, mà sau khi hưởng hết phước, chư thiên cũng không tránh khỏi luân hồi, nghĩa là phải chết, tuỳ theo nghiệp lực lúc sống lành hay dữ ,màcó thể được tái sanh trở lại làm người, hay sinh lên cõi Trời cao hơn, hoặc bị đoạ xuống các cõi dưới.

2) Cõi A-tu-la: Hình dáng không oai nghiêm bằng cõi trời nhưng cũng có phép thuật. A-tu-la là những sinh vật mạnh mẽ, là những người khi còn sống có nhiều tài năng nhưng tham danh lợi, tánh tình tự đắc, huênh hoang. Có khi là người tu hành tuổi hạ cao nhưng vẫn còn tham sân si, thích tán tụng công đức, đi đâu có tàng, có lọng che, có người hầu kẻ hạ, thích được tôn xưng bái lạy. Có thể họ là người có công với đạo pháp, xây nhiều tự viện cho mọi người tu tập, nhưng vẫn còn tham luyến sân si, được khen thì vui, bị chê thì giận v.v…Phúc đức của họ kém hơn chúng tiên ở cõi Trời, nên khi qua đời sanh vào cõi A-tu-la. Nếu sanh vào cõi A-Tu-La mà biết làm thiện, ít giận hờn, không đánh phá ai, sau khi chết sẽ sanh làm Người trở lại. Nếu chịu tu tập dẹp bỏ tánh hung dữ, không gây chuyện, không tranh giành, không đánh đập, không sân hận làm khổ chúng sanh xung quanh, thì sau khi chết sẽ sanh vào cõi Trời. Nếu sanh ở cõi A-Tu-La mà còn giận dữ, bỏn xẻn, ích kỷ thì khi bỏ thân A-Tu-La sẽ sanh vào Ngạ quỷ.

3) Cõi Người (Cõi Ta Bà hay gọi là thế giới loài người): Là nơi dành cho những người tạo Nghiệp lành trước khi chết, hoặc có lành có ác. Tuỳ theo Nghiệp mà người đó sanh ra đời đẹp hay xấu, giàu hay nghèo, hạnh phúc hay khổ đau. Cõi Người chia thành nhiều quốc gia và nhiều dân tộc khác nhau, vì thế mà khi tái sanh có người được sanh vào nước văn minh hưởng phước, có người tái sinh vào nước man di sống nghèo hèn khắc khổ.

Kinh sách thường khuyên: Kiếp này được sanh làm người thật là may mắn, hãy cố gắng làm phước, tạo nghiệp lành, giữ gìn năm giới để khi chết, được tái sanh lại làm người sống hạnh phúc, an vui, sung sướng. Hoặc tu thập thiện, tu Thiền để được lên cõi Trời hưởng phước.

4) Cõi súc sinh (Thế giới động vật):Đây là cõi giới của những loài động vật, gồm cả những con vật sống dưới nước, dưới mặt đất, trên mặt đất. Loài động vật có hai chân, bốn chân, nhiều chân hay có thân dài không chân, loài có lông có sừng, loài  cánh bay trên không trung hay loài côn trùng hoặc vi sinh vật nhỏ li ti mà mắt thường không trông thấy được... Súc sinh chỉ biết sống theo bản năng chớ không có lý trí. Những kẻ lúc còn sống ở thế gian chuyên chạy theo vật chất, ham muốn nhục dục thể xác, chuyên mua bán cần sa, bạch phiến, hút xách khiến đầu óc lúc nào cũng mê muội. Những người khi sống không từ những hành động tàn ác giết vật hại người. Khi chết bị đọa vào cõi súc sinh.

Ở cõi súc sinh này, khi cái chết đến, thường kết thúc bi thảm do loài này ăn thịt loài kia một cách dã man. Súc sanh sau khi chết tuỳ theo nghiệp lực đã tạo trước đó tốt hay xấuhoặc trả hết Nghiệp đời trước, mà được chuyển kiếp, hoặc bị đoạ trở lại cõi này.

5) Cõi Ngạ quỷ: Đây là cõi của những linh hồn khi còn sống tham lam vô độ, gian manh xảo quyệt, hối lộ tham nhũng, vơ vét của công, giết người cướp của, lấy của từ thiện làm của mình, thấy người đói khát lòng không mảy may thương xót còn đánh đập xua đuổi v.v... và v.v... Chúng Ngạ quỷ được mô tả bụng lớn, miệng và cổ thì nhỏ đến nổi không nuốt được đồ ăn thức uống nên đói khát triền miên.

6) Cõi Địa ngục (Cõi âm, lànơi chịu sự trừng phạt, đoạ đày, cực hình):Là nơi dành cho những con người đại gian đại ác, vô lương tâm, không tin nhân quả, chuyên khủng bố, giết người không gớm tay, gây tai hoạ đau thương nghiệt ngả cho vô số đồng loại và giết hại cả những loài động vật vô tội. Khi chết bị đày xuống địa ngục để trải nghiệm sựđau khổ mà họ đã gây ra cho người khác. Kinh Địa Tạng mô tả địa ngục phân chia thành nhiều tầng khác nhau, chúng sanh ở địa ngục tùy vào mức độ và hành vi của họ gây ra mà bị đọa vào tầng thích hợp. Theo Phật giáo, chúng sanh sống ở địa ngục, sau khi chịu trừng phạt vì những tội lỗi đã gây ra, có thể tái sanh vào cảnh giới cao hơn như súc sanh hay cõi người để tiếp tục trả Nghiệp.

 

V. SÁU CÕI LUÂN HỒI NGAY TRONG ĐỜI SỐNG HIỆN TẠI

Thuyết luân hồi trong đạo Phật mô tả hình ảnh một vòng tròn sự sống chết của con người không bao giờ dừng, do Nghiệp lực thúc đẩy. Nghiệp lực ấy do chính con người tạo ra, và bị nó làm chủ thúc đẩy sau khi chết tái sanh vào một cõi tương ứng với hành vi tốt xấu của mình lúc còn sống vào một trong sáu cõi luân hồi, từ đời này sang đời khác, và cứ tiếp tục như thế không bao giờ chấm dứt, nếu con người không chịu tu tập để được giác ngộ giải thoát.

Với cái nhìn của người tỉnh ngộ, thì sáu cõi luân hồi chính là sáu cảnh giới xuất hiện ngay trên thân tâm của con người khi họ còn sống ở trên thế gian này, chứ không phải chờ sau khi chết mới chịu luân hồi tái sanh. Sáu cõi luân hồi là sáu trạng thái tâm của con người như sau:

- Những bậc chân tu sống thầm lặng bình thản, tâm hồn luôn tha thứ và thương yêu mọi loài chúng sanh, họ sống vui vẻ thoải mái, không buồn lo, dính mắc như người đời, cũng xem như họ là những  bậc tiên nhân đang sống ở cõi Trời vậy. Có những người tuy đang sống ngoài đời, nhưng tu thập thiện, họ sống có đạo đức, không làm khổ mình, khổ người, không làm điều ác, toàn làm điều thiện, tâm không tham lam, thường hay tu hạnh bố thí, không bị dục vọng lôi cuốn, nên tâm trạng họ lúc nào cũng cảm thấy bình yên vui vẻ. Những người này tuy sống ở cõi Người mà không khác gì đang ở cõi Trời.

- Những Phật tử giữ giới luật, hoặc những người chưa quy y Tam Bảo nhưng sống hiền lành đạo đức, không sát sanh giết người giết vật, không tham lam trộm cướp, không để dục vọng tà dâm lôi cuốn, không nói lời hung dữ gây đau khổ cho người, không cờ bạc rượu chèđánh mất lương tri. Nhờ những đức lành này nên được sanh vào cõi Người. Cõi Người thì có khổ có vui. Muốn thoát khổ thì chọn cuộc sống tu hành loại bỏ tham ái dục vọng thì tâm sẽ được thảnh thơi nhẹ nhàng.

- A-Tu-La ám chỉ những người hay sân hận, giận dữ, không biết nhường nhịn, chỉ biết la hét, đánh đập đối phương. Những người này lúc nào cũng tự cho mình là đúng. Ngay cả khi họ có lòng tốt làm việc thiện, họ cũng dễ dàng nổi cáu, có cử chỉ hành động lời nói làm tổn thương người được họ giúp đỡ. Họ muốn những người này phải nhớ ơn họ và làm những gì theo ý họ muốn. Tóm lại A-Tu-La là nhưng người thường sống trong tâm trạng sân hận, ưa tranh cải, thích đánh nhau với người khác.

- Những người bất hạnh, nghèo hèn, khổ sở luôn thiếu ăn thiếu mặc. Mùa đông phải chịu lạnhMùa hè phải chịu nóngMùa mưa phải chịu ướt. Cuộc sống thiếu thốn đủ mọi mặt. Người luôn sống trong tâm trạng thèm thuồng đói khát này cũng giống như tâm trạng của loài ngạ quỷ.

- Người bị xếp vào hạng súc sanh là vì tuy thân họ mang hình người mà bản chất sống của họ giống như loài thú. Luôn sống theo đòi hỏi của bản năng, thoả mãn dục vọng. Sống không hề có lý trí cũng như đạo đức.

- Người sống trong địa ngục là người bị đọa đày đau đớn không lúc nào ngừng, có thể so sánh như những người sống trên đời mang thân bệnh hoạn đau đớn triền miên thế lúc nào tâm họ cũng bị dày vò khốn khổ. Cuộc sống của những người này giống như chúng sanh đang bị hành hạ ở Địa ngục vậy.

 

VII. KẾT LUẬN

Tìm hiểu ý nghĩa của thuyết luân hồi sanh tử qua sáu nẻo: Trời, Người, A-Tu-La, Ngạ quỷ, Súc Sanh và Địa ngục trong đạo Phật, không phải để chán nản, thất vọng, rồi buông lơi xả láng, hay mù quáng mê tín dị đoan, mà để tự mình chăm sóc cải thiện đời sống của chính mình từ buồn phiền, sân hận, hay từ phóng túng, vô đạo đức… sang một đời sống vui tươi hạnh phúc, có lợi cho mình và có lợi cho nhân quần xã hội.

Trong sáu cõi luân hồi, với nhục nhãn phàm phu chúng ta chỉ thấy được hai cõi là Cõi Người và Cõi Súc Sinh. Còn bốn cõi kia thì chúng ta chỉ biết được theo trong kinh sách kể lại. Nhưng không thấy chưa hẳn là không có.

Sự thật là chúng ta hiện đang ở trong Cõi Người.  Làm sao chúng ta có thể giải thích, cũng thời là con người mà có người da vàng, da trắng, da đen hay da đỏ. Có người tóc đen, tóc vàng hay tóc đỏ. Có người xinh đẹp, giàu sang, sung sướng, có người tật nguyền, đau khổ cảđời. Để giải thích những điều này, Đức Phật là bậc giác ngộ đã nói cho chúng ta biết, con người sanh ra bởi Nhân Quả, bởi Nghiệp. Đại khái nếu trong đời sống này, mình làm việc xấu ác gây khổ cho người, thì nơi tái sanh sắp tới của mình sẽ tương ưng với đời sống khổ phiền nghèo đói. Ngược lại nếu đời này mình sống tốt với mọi người, thì đời sau mình cũng có đời sống tốt đẹp.

Cõi Người là cõi dục, con người sanh ra do đam mê, ham muốn, hoài nghi, ngã mạn, tham, sân, si… tựu trung Đức Phật gọi những thứ đó là lậu hoặc, lậu hoặc huân tập lâu ngày thành Nghiệp. Con người không tu tập giác ngộ thì mãi là nô lệ của Nghiệp, mãi mãi phải chịu luân hồi sanh tử. Sau khi chết, thân tứ đại tan rã, trả lại cho thiên nhiên, chỉ còn lại cái tâm là tử thức, do Nghiệp làm chủ, nó dẫn đi đâu thì thức tái sanh phải đi theo tới đó. Mà Nghiệp dẫn đi đâu?  Trong kinh nói là đi tái sanh một trong sáu cõi.

Muốn biết hay thấy được sáu cõi luân hồi thì con người phải tu tập. Có hai cái thấy về sáu cõi luân hồi.

Đó là cái thấy luân hồi xảy ra ngay trong đời sống hiện tại của chính mình qua sự tu tập, khai mở tuệ tri và nhận ra nó. Và cái thấy siêu việt tuyệt đối vượt không gian và thời gian, đócái thấy của Đức Phật bậc toàn giác.

Tóm lại, dù sanh ra ở Cõi Người không được hoàn toàn sung sướng như ở cõi Trời. Nhưng trong kinh có ghi là muốn thành Phật thì phải sanh ra làm người để tu. Ở cõi Người có vui có khổ. Có người nghèo đói khổ sở thì mình mới tu được hạnh Bố Thí, Tứ Vô Lượng Tâm (Từ, Bi, Hỷ, xả). Con người cóác độc mình mới tu được hạnh Nhẫn Nhục v.v… Còn những cõi khác thì thật khó tu. Thí dụ như cõi Trời, tất cả chúng tiên không ai khổ, người nào cũng sống hưởng thụ vui vẻ không nghĩ đến tương lai, nhưng đến khi hết phước lại bị đoạ xuống những cảnh giới khác. Chúng thần ở cõi A-Tu-La thì sân si làm mờ lý trí. Cõi súc sanh thì sống với bản năng, làm sao mở mang trí tuệ. Cõi Ngạ quỷ cả đời đói khát chỉ biết nghĩ đến miếng ăn không nghĩ đến cái gì khác. Chúng sanh ở Địa ngục bị hành hình đau đớn không lúc nào yên, làm gì có thời giờ để nghĩ đến việc tu hành?

Riêng ở cõi Người, nếu may mắn có tấm thân khoẻ mạnh đầy đủ các căn, lại có bộ não nguyên vẹn. Đây là một phước báu lớn mà con người đã dày công vun bồi từ bao nhiêu đời mới cóđược. Chúng ta đừng để dục vọng lôi kéo sa vào đời sống tội lỗi tạo nghiệp xấu, để ngay khi còn sống, cũng như sau khi chết bị đoạ vào cõi tối tăm nhiều đau khổ.

Thuyết luân hồi hay sáu nẻo luân hồi sanh tử trong đạo Phật là hồi chuông cảnh tỉnh chúng ta hãy sớm tu tập theo lời Phật dạy: Hãy sống một đời đáng sống, nghĩa là sống đạo đức, sống thương yêu, sống đúng với tiêu đề “Chân Thiện Mỹ”, sống có lợi cho người và lợi cho mình trong hiện tại và tạo Nhân lành cho đời sống tương lai, hoặc sâu sắc hơn là sống và tu tập theo lời Phật dạy để sớm giác ngộ thoát khỏi bánh xe luân hồi sanh tử.

THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

(Chân Tâm thiền đường)

15-5-2020

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/03/2022(Xem: 2590)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu. Hôm nay tôi sẽ viết về các loại Tình: tình bạn, tình người, tình yêu, thình thương, tình cảm v.v… Nếu viết bằng chữ Hán về chữ Tình nầy thì bên trái viết bộ tâm đứng, có nghĩa là những tình nầy đều khởi đi từ tâm của mỗi con người; bên phải viết chữ thanh là màu xanh hay cũng còn có ý là rõ ràng, trong sáng v.v…, hai chữ nầy ghép lại gọi là chữ Tình. Sau nầy tiếng Việt chúng ta dùng chữ tình yêu, tình cảm, tình thương, tình ý v.v…cũng đều sử dụng chữ tình nầy để ghép chung vào chữ Nôm của chúng ta, trở thành tiếng Việt thuần túy.
04/03/2022(Xem: 2297)
Xin khép lại những phiền muộn của năm cũ với nhiều nỗi đau thương mất mát và ly biệt, niềm thương cảm cho người thân, thầy bạn mãi mãi rời xa chúng ta. Trong bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào, ta vẫn nghĩ, dù sao đó là những chuyện đã qua, năm mới với nhiều hy vọng mới, tư duy mới và một cuộc hành trình mới đang chờ chúng ta phía trước. Xin bạn hãy khép lại những lo âu phiền muộn, lau khô những giọt nước mắt cho những mối tình hay những cuộc hôn nhân đổ vỡ, rồi cũng sẽ có người phù hợp với bạn, sẻ chia vui buồn trong cuộc sống của bạn. Sự chân thành sẽ tồn tại quanh bạn, những giọt nước mắt sẽ giúp bạn hiểu được cuộc đời này, rồi niềm vui sẽ đến, những trở ngại giúp bạn biết nâng niu cuộc sống.
02/03/2022(Xem: 5955)
CHÁNH PHÁP Số 124, tháng 3.2022 Hình bìa của Kranich17 (Pixabay.com) NỘI DUNG SỐ NÀY: THƯ TÒA SOẠN, trang 2 TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 XUÂN VỀ (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 6
01/03/2022(Xem: 3841)
Những ngày gần đây, dường như chánh niệm đang lan tỏa khắp mọi nơi. Khi tìm kiếm trên Google mà tôi đã thực hiện vào tháng 1 năm 2022 cho cụm từ "Chánh niệm" (Mindfulness) đã thu được gần 3 tỷ lượt truy cập. Phương pháp tu tập thiền chánh niệm này hiện được áp dụng thường xuyên tại các nơi làm việc, trường học, văn phòng nhà tâm lý học và các bệnh viện trên khắp cả nước Mỹ.
01/03/2022(Xem: 3835)
Hàng trăm đồ tạo tác vật phẩm văn hóa Phật giáo đã bị đánh cắp hoặc phá hủy sau cuộc quân sự Taliban tấn công và tiếp quản Chính quyền Afghanistan ngày 15 tháng 08 năm 2021. Hôm thứ Ba, ngày 22 tháng 02 vừa qua, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cho biết, Hợp chúng quốc đã hạn chế các vật phẩm văn hóa Phật giáo và lịch sử từ Cộng hòa Hồi giáo Afghanistan, với hy vọng ngăn chặn "những kẻ khủng bố" kiếm lợi, nhưng các chuyên gia bày tỏ lo ngại về những hậu quả không mong muốn.
24/02/2022(Xem: 2511)
Nhà kiến tạo hòa bình, nhà tâm lý học, nhà cải cách xã hội học, nhà giáo dục và Phật giáo Dấn thân nổi tiếng, người Mỹ và được trên thế giới kính trọng, Tiến sĩ Phật tử Paula Green sinh vào ngày 16 tháng 12 năm 1937 tại Hoa Kỳ, đã thanh thản trút hơi thở từ giã trần gian vào ngày 21 tháng 2 năm 2022, hưởng thọ 84 tuổi.
24/02/2022(Xem: 2507)
Tôi học mãi Phẩm 6 về “ Người Hiền Trí “trong kinh Pháp Cú và bài thứ tư trong kinh Trung Bộ “ Sợ Hãi và Khiếp Đảm “ mà vẫn không chán vì càng học càng thấy nhiều lợi ích để tu tập và sửa đổi những tật xấu và lỗi lầm của mình trên đường tu học nhất là khi mình được một đại phước duyên gần gũi một bậc hiền trí . Thú thật ….trong những năm tự nhốt mình trong tháp ngà tôi đã nghiên cứu Thiền, Tịnh, Mật, rất cẩn thận từ ghi chép, nghe nhiều pháp thoại, so sánh kinh sách nhiều tông phái …thế nhưng chưa bao giờ như lúc này tôi cảm nghiệm lời dạy Đức Phật lại thâm huyền và siêu việt hơn bao giờ hết khi phối hợp hai phẩm này trong hai bộ kinh căn bản nhất cho những ai bước trên đường Đạo . Trộm nghĩ dù với tuổi nào khi chưa hoàn tất hay gặt hái được mục đích thành tựu của Trí Tuệ ( DUY TUỆ THỊ NGHIÊP) thì chúng ta hãy cứ bước đi mà chẳng nên dừng lại .
24/02/2022(Xem: 5821)
Tác giả tác phẩm này là Tỳ Kheo Sujato, thường được ghi tên là Bhikkhu Sujato, một nhà sư Úc châu uyên bác, đã dịch bốn Tạng Nikaya từ tiếng Pali sang tiếng Anh. Bhikkhu Sujato cũng là Trưởng Ban Biên Tập mạng SuttaCentral.net, nơi lưu trữ Tạng Pali và Tạng A Hàm trong nhiều ngôn ngữ -- các ngôn ngữ Pali, Sanskrit, Tạng ngữ, Hán ngữ, Việt ngữ và vài chục ngôn ngữ khác – trong đó có bản Nikaya Việt ngữ do Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch từ Tạng Pali, và bản A-Hàm Việt ngữ do hai Hòa Thượng Tuệ Sỹ và Thích Đức Thắng dịch từ Hán Tạng.
22/02/2022(Xem: 3411)
Trong lịch sử, các đại dịch đã buộc nhân loại phải đoạn tuyệt với quá khứ và hy vọng ở tương lai thế giới mới của họ. Điều này không có gì khác lạ. Nó là một cổng thông tin, một cửa ngõ, giữa thế giới đương đại và thế giới tương lai. Nhà văn, nhà tiểu luận, nhà hoạt động người Ấn Độ Arundhati Roy, Đại dịch là một cổng thông tin
21/02/2022(Xem: 2336)
Bốn Sự Thật Cao Quý được các kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ Diệu Đế, là căn bản của toàn bộ Giáo Huấn của Đức Phật và cũng là một đề tài thuyết giảng quen thuộc. Do đó đôi khi chúng ta cũng có cảm tưởng là mình hiểu rõ khái niệm này, thế nhưng thật ra thì ý nghĩa của Bốn Sự Thật Cao Quý rất sâu sắc và thuộc nhiều cấp bậc hiểu biết khác nhau. Bài chuyển ngữ dưới đây đặc biệt nhấn mạnh đến nguồn gốc vô minh tạo ra mọi thứ khổ đau cho con người, đã được nhà sư Tây Tạng Guéshé Lobsang Yésheé thuyết giảng tại chùa Thar Deu Ling, một ngôi chùa tọa lạc tại một vùng ngoại ô thành phố Paris, vào ngày 16 và 30 tháng 9 năm 2004. Bài giảng được chùa Thar Deu Ling in thành một quyển sách nhỏ, ấn bản thứ nhất vào năm 2006.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567