Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Khái lược Truyền thống Tín ngưỡng Nhân gian Hàn Quốc

12/05/202008:59(Xem: 8029)
Khái lược Truyền thống Tín ngưỡng Nhân gian Hàn Quốc

Khái lược Truyền thống Tín ngưỡng Nhân gian Hàn Quốc

 

Tín ngưỡng của người Hàn Quốc đối với các vị Thần linh và Tổ tiên

                                                       

Hiện tại chúng ta đang sống trong một thế giới với đa tín ngưỡng tôn giáo, tin rằng trên đời này duy nhất chỉ có Đấng Chúa, hay một vị Thần (Độc thần).

 

Trong khi đó mỗi tộc người lại có tín ngưỡng những vị thần khác nhau. Ví vụ ở Ấn Độ có đến 300 triệu vị thần tiên. Còn ở Nepal thì hiện nay họ vẫn tôn thờ “Hoạt Nữ thần”, vị Hoạt Nữ thần bí ẩn này được gọi là “Kumari”, “Thánh nữ Đồng trinh”. Tục lệ thờ nữ thần sống Kumari đã tồn tại từ hàng thế kỷ nay ở Nepal, theo đó, người ta sẽ thờ phụng những bé gái như hiện thân của nữ thần.

 Khái lược Truyền thống Tín ngưỡng Nhân gian Hàn Quốc-1-Sơn Thần Kỳ đảo

Hình 1:  Sơn Thần Kỳ đảo (산신기도, 山神祈禱)

 

Theo tín ngưỡng nhân gian Hàn Quốc cũng có nhiều vị thần từ thời cổ đại. Mỗi danh sơn có vị “Sơn thần-산신”, bảo hộ nhân dân làng xã có vị thần Thành Hoàng Bản Cảnh  (성주신, 城主神)”, bảo hộ nhà cửa có vị “Thần Chủ-터주신”, bảo hộ trẻ em có Tam Nữ Thần (삼신 할 모니, 三女神), nhà bếp có  Táo Vương Thần (조왕신, 竈王神), Giếng nước thì có Thủy Tỉnh Thần (우물신, 水井神), cho đến việc cai quản nhà vệ sinh thì có Xí Thần (측신, 厠神). . . Ngoài những vị thần linh, người Hàn Quốc còn quan niệm rằng các bậc Tổ Tiên đã khuất trong dòng tộc “Tổ Tiên Thần” luôn luôn che chở phù hộ cho hiếu tử hiền tôn. Thậm chí người Hàn Quốc lấy bệnh đậu mùa, một bệnh nan y khó chữa làm bậc thần linh Thiên Hoa Thần (천화신). Điều này cũng có nghĩa là các vị thần luôn ở bên con người từ khi chúng ta được sinh ra trên trần thế cho đến khi từ giã cõi  đời. Vì vậy nên vào những dịp đặc biệt như các dịp lễ Tết hay Sinh nhật, họ thường làm cỗ dâng cúng các vị Thần linh và cầu khấn Phúc lộc.

 

Những Nhạc phẩm truyền thống có nội dung về Tín ngưỡng của người Hàn Quốc

 

Truyền thuyết xưa ở Hàn Quốc rằng, các gia đình khi có công chuyện lớn thường vời những người khiếm thị đến tụng bài kinh “An Trạch Kinh-안 택 경-安宅經” cầu nguyện gia đạo bình an. Sau bài “An Trạch Kinh” tiếp đến là bài “Bãi Kinh-罷經” cũng gọi là “Manh Nhân Đức Đàm Kinh-盲人德談經” luôn luôn được họ tụng ngân nga. Bài “Manh Nhân Đức Đàm Kinh-盲人德談經” có tác dụng để dỗ dành tạp quỷ cho chúng tự rút lui. Họ xem cả những vị thần không chốn nương tựa và những người chết, thần hồn oan uổng đều là tạp quỷ.  

 Khái lược Truyền thống Tín ngưỡng Nhân gian Hàn Quốc-2-Tam-Nữ-Thần

Trong thời cổ đại, sau khi hầu đồng “Musok-무속” và nghi lễ hầu đồng “Gut -굿), người Hàn Quốc thường san sẻ mỗi loại đồ cúng một ít rồi để ở ngoài sân cho tạp quỷ ăn. Họ tin rằng sau khi ăn đồ cúng, bọn tạp quỷ sẽ tự bỏ đi, không vào nhà quấy phá người trong gia đình. Theo quan niệm truyền thống của người Hàn Quốc thì cho dù là tạp quỷ cũng không được ác khẩu trù rủa mà cho ăn uống thỏa thích rồi cho lui.

 

Thông thường dân gian nghĩ rằng các vị thần là những đấng linh thiêng công minh chính trực, có uy lực và khả năng siêu phàm, bảo hộ người lành, trừng phạt kẻ ác. Một số tín ngưỡng nhân gian Hàn Quốc xem các vị thần linh luôn hiển hiện giống như con người. Và rằng nếu ta thành ý nhất tâm tín phụng thần, thì các vị thần linh sẽ phù hộ và ban phúc lộc cho ta. Còn nếu ta đã kiệt tận toàn lực tín phụng thần, mà các vị thần linh không đoái hoài gì đến ta, thì ta cũng chẳng cần phải tín phụng gì nữa. Ví dụ như lúc lênh đênh ngoài biển khơi, thuyền gặp phải song to gió lớn và có nguy cơ bị nhấn chìm ngư dân trên thuyền mang vứt ngay vật tượng trưng cho Hải Đại Thần Vương xuống biển. Điều này có nghĩa là họ không cần đến vị Hải Đại Thần Vương không bảo vệ được tàu thuyền.

 

Shamanism “Vu tục tín ngưỡng-무속신앙-巫俗信仰” là một thuật ngữ được nhiều nhà nghiên cứu tôn giáo Hàn Quốc dùng để chỉ một hiện tượng tín ngưỡng dân gian đa thần giáo hiện diện ở Hàn Quốc từ thời cổ đại, gọi là “Musok-무속”, tức tập tục cúng tế, bói toán, lên đồng.

 

Theo các nhà nghiên cứu thì “Musok-무속” xuất xứ từ những tín ngưỡng Shamanism “Vu tục tín ngưỡng-무속신앙-巫俗信仰” cổ đại. Những người dân di cư từ cá bộ tộc ở Siberi (Nằm trong đế chế Nga, Siberi là một tỉnh nông nghiệp và dùng là nơi đi đày cho những người bất đồng chính kiến) đã đem theo tín ngưỡng của họ đến bán đảo Triều Tiên từ thời tiền sử.

 

Tại đây những Vu tục tín ngưỡng (무속신앙-Shamanism) ấy đã trải qua quá trình phát triển và biến đổi lâu đời, gắn với những hoàn cảnh đặc thù của cuộc sống lao động và đấu tranh với thiên nhiên của những cư dân trên bán đảo Triều Tiên.

 

Trong quá trình phát triển,  Vu tục “Musok-무속” của Hàn Quốc chịu ảnh hưởng của tam giáo Phật-Nho-Lão và nhiều tôn giáo ngoại lai khác. Cũng chính vì vậy, ngày nay Vu tục tín ngưỡng (무속신앙-Shamanism) vừa thể hiện những đặc thù của văn hóa Hàn Quốc vừa mang nhiều nét phổ biến của truyền thống văn hóa phương Đông.

 

Vu tục tín ngưỡng (무속신앙-Shamanism) là một loại tín ngưỡng đa thần giáo. Dân gian cho rằng mọi sự vật, hiện tương của thế giới xung quanh từ mặt trời, các vì tinh tú đến sơn hà đại địa đều có linh hồn. Các linh hồn này không phải vô can với cuộc sống của con người mà trái lại, có thể đem lại cho họ những điều may mắn hoặc bất hạnh. Dân gian Hàn Quốc tin rằng con người sau khi chết rồi thì thần hồn vẫn tiếp tục tồn tại và có thể phù hộ, ban cho những tài lộc hoặc đem lại điều ác, thậm chí trừng phạt những người đang sống tùy theo cách ứng xử của họ với những thần hồn này.

 

Cũng vì vậy mà trong tín ngưỡng dân gian Vu tục tín ngưỡng (무속신앙-Shamanism) đã hình thành một loại người được tin là có khả năng đặc biệt, giữ vai trò trung gian giữa thế giới thần linh và thế giới những con người bình thường đang sống các vị thầy cúng, thầy tế, thầy bói.

 

Tại Hàn Quốc những người giữ vai trò trung gian trong tín ngưỡng dân gian nói trên tuy rất đa dạng, nhưng có thể được chia làm ba loại chính là các vị pháp sư, thầy tế và thầy bói. Có hai loại pháp sư nữ “Mudang-무탕”, pháp sư nam “Paksu”. Tuy nhiên, ở Hàn Quốc hiện nay phần lớn đều là nữ pháp sư “Mudang-무탕”.

 Khái lược Truyền thống Tín ngưỡng Nhân gian Hàn Quốc-3-Táo Vương Thần

Vu tục tín ngưỡng (무속신앙-Shamanism), một loại tín ngưỡng dân gian, nó khôn có kinh điển, giáo lý hoàn chỉnh như các tôn giáo Phật giáo, Thiên Chúa giáo. Mặc dù vậy, về mặt tư tưởng nó tiếp thu nhiều yếu tố của các tôn giáo khác. Vu tục tín ngưỡng (무속신앙-Shamanism) chịu ảnh hưởng quan niệm của Phật giáo về kiếp luân hồi. Những việc cát hung, họa phúc mà con người tạo ra trong cuộc sống hiện tại không phải đã kết thúc ở cái chết, nó còn tiếp tục duyên nợ đến tận kiếp sau; chịu ảnh hưởng quan niệm của Nho giáo cho rằng con người phải tôn thờ song thân phụ mẫu, tổ tiên cả khi còn tại thế lẫn khi khuất, giữ lễ giáo như vậy là hợp với đạo lý nên được tổ tiên phù hộ, độ trì; tiếp thu những yếu tố huyền bí của Đạo giáo, tin vào pháp thuật bùa chú, tướng số và đặc biệt là yêu mến và sống hài hòa cùng thiên nhiên đất trời.

 

Người Hàn Quốc hiện đại có thái độ hai mặt với Vu tục tín ngưỡng (무속신앙-Shamanism). Một mặc họ thấy loại hình tín ngưỡng dân gian này là điều phiền toái, không phù hợp với sự phát triển của xã hội hiện đại do bản chất tà kiến, mê tín dị đoan của nó. Mặt khác, họ thấy Vu tục tín ngưỡng (무속신앙-Shamanism) là biểu hiện tính thống nhất của bán đảo Triều Tiên từ góc độ tín ngưỡng tôn giáo và đó cũng chính là biểu hiện của tính thống nhất văn hóa.

 

Trò chơi lão ông “대가 노리-Đại nhân Du hý-Daegamnori” vốn là trò chơi trong nghi lễ hầu đồng “Gut -굿), của vùng Seoul, Gyeoggi, Hàn Quốc và tỉnh Hwanghae nay thuộc Bắc Triều Tiên. Người dân trên báo đảo Hàn Quốc cổ đại tin rằng nếu như thần Đại nhân Du Hý hoan hỷ thì tài lộc của họ vượng phát, mà ca múa là những điều dễ làm vui lòng các đấng thần linh.

 

Các nghệ sĩ hát kể chuyện “Pansori-판소리” (một thể loại âm nhạc truyền thống của Hàn Quốc, được truyền đạt qua giọng hát và tiếng trống, được biểu diễn với một ca sĩ) vùng Geonggi không phải là các ông bà hầu đồng nhưng họ đã đem đoạn trích Trò chơi lão ông “대가 노리-Đại nhân Du hý” lên sân khấu biểu diễn và danh ca Ji Yeon-hwa là thể hiện khúc hát này nổi tiếng.

 Khái lược Truyền thống Tín ngưỡng Nhân gian Hàn Quốc-4-Xí Thần

Tạp ca Báo Niệm “보렴- Boryeom”, bài ca ở vùng Bắc và Nam Jeolla. Xưa kia ở Hàn Quốc có rất nhiều gánh hát “Noripae-노리페”cứ nương nhờ nhà chùa làm nơi cư ngụ và đi múa hát khắp nơi xin đồ bố thí. Thuở ấy, tạp ca Báo Niệm “보렴- Boryeom”, khúc hát cầu nguyện Phúc lộc tài đến với người dân, là ca khúc được gánh hát “Noripae-노리페” hát nhiều nhất. Trước tiên, họ hát cầu nguyện chư Phật Bồ tát gia hộ cho quốc thái dân an, thiên hạ thái bình, cầu siêu cho bách tính quá vãng siêu sinh Cực lạc quốc.

 

* Bài Bãi Kinh “파경- Pagyeong” do nghệ sĩ Oh Bok-nyeo (오복녀 ) biểu diễn

 

* Nhạc phẩm “Đại nhân Du hý-대가 노리” do song ca Mok Gye-wol, Ji Yeon-hwa “목계 월, 지연 화 ”


* Tạp ca “Báo Niệm-보렴” do nghệ sĩ Kim Su-yeon (김수연) trình diễn

 

Vân Tuyền

(Nguồn: PG Korea)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/10/2015(Xem: 9549)
(1) Nền tảng của mọi phẩm chất tốt đẹp là vị bổn sư tử tế, hoàn hảo và thanh tịnh; Sùng mộ ngài một cách đúng đắn là cội nguồn của đường tu. Nhờ thấy rõ điều này và gắng sức, Xin hộ trì cho con thành kính nương tựa nơi ngài.
03/10/2015(Xem: 8326)
Một trong những mục đích chính của việc tranh luân trong khi tu học Phật pháp là để giúp bạn phát triển nhận thức quả quyết (nges-shes). Bạn sẽ chọn một quan điểm và người đối tác trong cuộc tranh luận sẽ thách thức quan điểm này bằng nhiều quan điểm khác nhau.
03/10/2015(Xem: 10322)
Xin đảnh lễ chư đạo sư đáng tôn kính nhất! (1) Tôi sẽ hết lòng giảng giải, Các điểm trọng yếu trong tất cả Kinh điển của Đấng Chiến Thắng, Đường tu được tất cả chư Bồ tát thiện hảo tán thán, Cửa ngõ cho những người may mắn mong cầu giải thoát.
03/10/2015(Xem: 7573)
Một ngày nọ, khi Milarepa đang ở trong hang động một mình thì hai vị khách tìm đến hỏi han. - Ông ở một mình à? Ông không thấy cô đơn sao? - Tôi luôn luôn sống với một người nào đó, không bao giờ đơn độc. Ngài trả lời. - Nhưng ông sống với ai? Người trẻ tuổi hơn trong hai người hỏi ngài.
03/10/2015(Xem: 8256)
Mối quan hệ sâu đậm với một vị thầy tâm linh có thể là sự nối kết thăng hoa và quan trọng nhất trong một đời người. Nó cũng có thể là nguồn gốc của sự lừa dối bản thân, đau đớn và tuyệt vọng tinh thần. Tất cả đều dựa vào việc chủ động tạo ra một quan hệ lành mạnh. Điều này lại tùy thuộc vào một thái độ thực tiễn về trình độ của chính mình và vị thầy, về mục đích, động lực và ranh giới của mối quan hệ.
03/10/2015(Xem: 8008)
Milarepa có một người chị cứ khăng khăng bảo ngài đi cưới vợ, xây nhà và sinh con, nhưng ngài đã bỏ nhà ra đi và gặp vị thầy của mình là Marpa. Khi chị của ngài biết rằng Marpa đã lập gia đình, bà càng ép buộc Milarepa hơn nữa.
03/10/2015(Xem: 7582)
Trong Hiện Quán Trang Nghiêm Luận (mNgon-rtogs rgyan, tiếng Phạn, Abhisamayalamkara), Đức Di Lặc đã liệt kê bốn mươi sáu lỗi lầm ảnh hưởng đến việc phát triển trí tuệ tương ứng với căn cơ của chư Bồ tát (sbyor-ba’i skyon). Những lỗi lầm này có thể xảy ra trong tâm thức của một Bồ tát thánh nhân từ sơ địa cho đến thất địa, như đã được trình bày theo hệ thống trong sơ đồ của trường phái Y Tự Khởi (Svatantrika). Mặc dù chúng đã được trình bày theo hệ thống bằng cách nghiên cứu văn học Bát Nhã Ba La Mật Đa (Prajnaparamita, Far-reaching Discriminating Awareness, Perfection of Wisdom), các lỗi lầm này cũng có thể liên quan đến những khía cạnh khác trong việc tu học và hành trì.
03/10/2015(Xem: 10325)
Tiểu sử của một lama vĩ đại được gọi là “namtar” (rnam-thar), một tiểu sử mang tính cách giải thoát, vì nó tạo nguồn cảm hứng cho người nghe noi theo gương của ngài để đạt được giải thoát và giác ngộ. Tiểu sử của ngài Tông Khách Ba (Tsongkhapa) (rJe Tsong-kha-pa Blo-bzang grags-pa) (1357-1419) thật sự gây nhiều cảm hứng.
03/10/2015(Xem: 6526)
Dưới đây là một bài giảng ngắn của nhà sư người Mỹ Thanissaro Bhikkhu (1940- ), tu tập theo truyền thống "Tu Trong Rừng" của Phật giáo Theravada, về việc chữa trị bệnh tật trong tâm thần cũng như trên thân xác nhờ vào phép thiền định về hơi thở. Tuy là một bài giảng ngắn, thế nhưng việc mô tả phép thiền định này thật hết sức chi tiết và rõ ràng mà mọi người đều có thể mang ra để luyện tập. Độc giả có thể tìm đọc bản gốc tiếng Anh của bài này trên mạng của nhà sư Thanissaro:
01/10/2015(Xem: 9194)
Trước trung thu nhiều người có hỏi tôi: “Ở Sài Gòn, tết trung thu, ngoài phố lồng đèn bạn có biết đi đâu được nữa không?”. Tôi cũng tự băn khoăn, liệu trung thu năm nay mình sẽ làm gì, đi đâu để trung thu tuổi 19 không chỉ là câu chuyện của sum vầy, của chiếc bánh trung thu được san sẻ cùng chị cùng mẹ. Tôi muốn trung thu này sẽ còn là câu chuyện của ý nghĩa, của niềm hạnh phúc, của yêu thương, của ấn tượng khó phai. Và tôi đã có lựa chọn cho chính mình - cùng vun đắp Trung thu này cùng CLB yêu sách Thái Hà và những mầm non nơi xa xôi đô thành.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]