Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đôi nét về Tiến sĩ Phật tử Ernest Hetenyl - người Sáng lập Xã hội PG Hungary

19/04/202020:51(Xem: 7332)
Đôi nét về Tiến sĩ Phật tử Ernest Hetenyl - người Sáng lập Xã hội PG Hungary

Đôi nét về Tiến sĩ Phật tử Ernest Hetenyl - người Sáng lập Xã hội PG Hungary

 Cư sĩ Ernest Hetenyl  Lạt ma Dharmakirti Padmavadzsra

Tiến sĩ Phật tử Ernest Hetenyl – Lạt ma Dharmakirti Padmavadzsra (1912-1999), là một trong những người tiên phong vĩ đại của Phật giáo châu Âu, tác giả nổi tiếng người Hungary, chuyên nghiên cứu và thực nghiệm Kim Cương thừa Phật giáo Tây Tạng, nguyên Chủ tịch Hội Phật giáo Hungary, vị lãnh đạo Hội Phật giáo Ārya Maitreya Mandala tại Đông Âu.

 

Tiến sĩ Phật tử Ernest Hetenyl sinh ngày 13/02/1912 tại thủ đô Budapest, Hungary. Phụ thân của ông là nhà soạn nhạc Opera, dịch giả và nghệ sĩ Albert Hetényi-Heidelberg (1875–1951). Hiền mẫu của ông là cụ bà Erzsébet Heidel, một diễn viên nổi tiếng và ca sĩ thời đó.

 

Thuở nhỏ, ông học xuất sắc ngôn ngữ Đức và văn học (tiếng Đức là tiếng mẹ đẻ thứ hai). Ông rất yêu thích văn học Hungary, đặc biệt là thơ ca, yêu nghệ thuật âm nhạc và thể thao cá nhân. Sau khi tốt nghiệp trường ngữ pháp Evangelical Evmarical, cuối cùng ông đã trở thành một nhà báo tự do, chủ yếu làm việc cho nhà hát.

 

Với tâm hồn nghệ sĩ, yêu văn hóa nghệ thuật, ông vân du đó đây khắp châu Âu, thuộc đại của châu Phi-Ý khi còn trẻ, ông cũng đã hành hương chiêm bái xứ Phật huyền bí Ân Độ.

 

Là một đệ tử chân truyền của ngài Lạt ma Anagàrika Govinda (người Ấn Độ, 1898-1985), Tiến sĩ Ernest Hetenyl (Pháp danh Dharmakirti Padmavadzsra) đã khởi xướng thành lập phân hội Hội Phật giáo Ārya Maitreya Mandala vào tháng 3/1953 và trở thành vị lãnh đạo Hội Phật giáo này tại Đông Âu.

 

Năm 1931, ông với tư cách một nhà báo, đã đến viếng thăm Italy, nơi ông thực hiện cuộc hành trình giữa hai thành phố Napoli và Bari, thủ phủ của vùng Apulia, nằm kế biển Adriatic, tại Ý bằng cách đi bộ, ông đã gặp gỡ và tiếp xúc với một vị tăng sĩ Phật giáo người Áo, pháp hiệu là Padma. Vị Đại đức này đã có ý định mang Phật giáo đến phát triển ở quê hương đất nước Hungary của vị tiền bối Phật tử Alexande Csoma Kroros (1784-1842).

 

Năm 1956, Tiến sĩ Phật tử Ernest Hetenyl đã thành lập Viện Phật học Quốc tế mang tên vị tiền bối Phật tử là Alexande Csoma Kroros, một nhà triết học người Hungary. Viện Phật học này là một tổ chức giáo dục Phật giáo đầu tiên tại châu Âu, có những hoạt động phật sự tích cực nhằm truyền trao những giáo lý của đức Phật đến với người dân Hungary trong mấy mươi năm qua. Ông rất thành công trong việc củng cố mối quan hệ các đơn vị với các cộng đồng Phật giáo và các tổ chức Phật giáo ở Mông Cổ và các quốc gia thuộc Liên bang Xô Viết cũ.

 

Trong ba thập niên 60, 70 và 80 của thế kỷ 20, Phật giáo Hungary dường như không phát triển vì thể chế chính trị tại xứ sở này không ưu đãi cho tôn giáo. Theo sau sự sụp đổ của Cộng sản Liên Xô vào tháng 12/1991, các nước Trung và Đông Âu dần dần ổn định lại chế độ chính trị và kinh tế, những cải cách xã hội, văn hoá, tôn giáo đã được quan tâm và tiến hành một cách nhanh chóng và có hiệu quả.


Trước đây, dưới chế độ Cộng sản vô thần cực đoan, có nhiều sự hạn chế và phân biệt đối với hầu hết các tôn giáo tại Hungary. Nhưng sau khi dân chủ được thiết lập trên xứ sở này thì mọi thứ đều thay đổi, nhất là về mặt tự do tín ngưỡng. Ngày trước, Hungary chỉ có bốn đạo được chính quyền công nhận, còn những tôn giáo khác, kể cả Phật giáo cũng không được thừa nhận.

 

Trong thời Cộng sản cai trị từ năm 1949, Hungary chính thức là một quốc gia vô thần. Các Giáo hội La Mã phải đối đầu với chính quyền Cộng sản sau khi ban hành luật giảm bớt tài sản nhà thờ và trường học. Do sự chống lại những thay đổi này, nhà thờ đã được trao quyền rộng rãi hơn thông qua thỏa thuận năm 1964 với Vatican, và năm 1972, Hiến pháp Hungary tuyên bố thực hiện miễn phí việc thờ phượng và tách biệt nhà thờ và nhà nước. Kể từ khi chủ nghĩa Cộng sản sụp đổ năm 1990, hơn 200 nhóm tôn giáo đã được đăng ký chính thức tại quốc gia hiện thời không cộng sản. Thành viên danh nghĩa trong một giáo phái tôn giáo, tuy nhiên, không nhất thiết có nghĩa là tham gia tích cực hoặc thậm chí tín ngưỡng tâm linh tích cực.

 

Sự thái quá của lãnh tụ Cộng sản vô thần cực đoan tàn ác Stanlin đã  để lại những vết nhơ thấm sâu khắp Đông Âu, nơi mà nhiều người vẫn nguyền rủa ông vì sự tàn bạo và không khoan dung dưới thời Cộng sản.

 

Tiến sĩ Phật tử Ernest Hetenyl đã xuất bản nhiều sách và bài báo về Phật giáo Tây Tạng. Ông cũng là một nhà nghiên cứu về Lịch sử Phật giáo ở Hungary.

 

Tác phẩm:

 

-  Kőrösi Csoma Sándor dokumentáció. Budapest 1982, ISBN 9789630006385

-  Alexander Csoma de Körös. The Hungarian Bodhisattva. Budapest 1984

-  A Változás Könyve. Háttér 1989, ISBN 9789637403361

-  Tibeti Halottaskönyv. Hatter Kiado 1991, ISBN 978-9637455339

-  Tibeti tanítók titkos tanításai. Trivium Kiadó 1996, ISBN 9789637570100

 

Năm 1982, ông đã từ giã Đức Đạt Lai Lạt Ma 14, người mà ông đã từng bái kiến ba lần trong các chuyến hành hương đất Phật Ấn Độ.

 

Thuận thế vô thường, Tiến sĩ Phật tử Ernest Hetenyl – Lạt ma Dharmakirti Padmavadzsra đã an nhiên xả báo thân, nhập Pháp giới tính vào ngày 17/09/1999, hưởng thọ 87 tuổi.

 

Thích Vân Phong 

(Nguồn: Terebess Ázsia Lexikon)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/10/2012(Xem: 6250)
Thekchen Choeling, Dharamsala, ngày 25 tháng 9 năm 2012 - Sau khi Đức Đạt Lai Lạt Ma an tọa vào chỗ ngồi của Ngài, vị đại diện của đoàn Phât Tử đến từ Việt Nam đã dâng tặng Ngài một cây hoa thường được trồng trong các khuôn viên chùa ở Việt Nam. Ngài cảm ơn vị đại diện và bắt đầu cuộc nói chuyện, 2012_09_25_Vietnam_N03"Hôm qua, chủ đề chính của tôi là đạo đức thế gian và hôm nay tôi muốn nói một chút về Phật Pháp. Thông thường, khi tôi nói chuyện về Phật giáo, tôi muốn giải thích một cái gì đó về các tôn giáo khác trên thế giới để mọi người có thể đánh giá cao tính năng độc đáo của giáo lý đạo Phật. Các học giả lớn của trường Đại học cổ Ấn Độ University of Nalandanhư ngài Long Thọ, Thánh Thiên (Aryadeva), Phân Biệt Minh Bồ Tát (Bhavaviveka), Tịch Hộ (Shantarakshita), và ngài Kamalashila, đã so sánh quan điểm triết học Phật Giáo với quan điểm không phải triết học Phật giáo một cách rõ ràng. Tại Ấn Độ, những quan điểm của Phật Giáo thường không bị thách thức và cách mà các học giả bảo v
25/09/2012(Xem: 9675)
Hiện có hai nguồn tin đối nghịch về Bột Nêm. Một bên cho rằng Bột Nêm KHÔNG AN TOÀN vì có chứa hai chất "sodium 5 va guanylate" (I&G).
25/09/2012(Xem: 7354)
Theo triết lý nhà Phật, Tâm là chủ thể tạo tác ra mọi thứ (Vạn pháp do tâm tạo), trong đó có tướng. Tâm là nhân mà pháp là quả.
23/09/2012(Xem: 7268)
Thế kỷ 21 đang chứng kiến nhiều đổi thay lớn lao trong những phát kiến khoa học. Xã hội phương tây ngày càng hướng về đời sống vật chất, hưởng thụ nhiều hơn. Đời sống tâm linh, đời sống Tôn giáo ngày càng như xa lạ đối với giới trẻ, thành tố cho một phạm trù cộng đồng nhân loại mới. Khi một xã hội, mà con người chỉ lo tìm cách giành dựt lợi nhuận, dối trá trong cư xử và tàn bạo trong cuộc cờ “mạnh được yếu thua”
21/09/2012(Xem: 13114)
"Heartwood of the Bodhi tree" (Cốt lõi của cội Bồ-đề) - Buddhadasa Bhikkhu, Hoang Phong chuyển ngữ
18/09/2012(Xem: 12947)
Qua bài viết này, người viết mong rằng sẽ góp một phần nhỏ kiến thức về ý nghĩa chân thật về Phật giáo đối với Phật tử đi chùa.
14/09/2012(Xem: 21932)
Thế giới đang sử dụng Thiền như thức ăn như nguồn sống không thể thiếu trong cuộc đời thường. Ngay ở nước Mỹ, quốc gia tân tiến bậc nhất về khoa học kỹ thuật cũng đã áp dụng Thiền như một phương thuốc trị liệu tâm lý.
14/09/2012(Xem: 8686)
Tất cả những pháp môn tu chỉ nhằm chuyển hóa tâm thức, vì chỉ có chuyển hóa tâm thức. Nhìn trên căn bản, mỗi người tu Phật cần thực hành hai phương diện. Thứ nhất, hành giả phải có khả năng rút khỏi xã hội một thời gian nhất định nào đó, có thể vài giờ, vài ngày, vài tháng hoặc vài năm... Thứ hai, có khả năng đem những kinh nghiệm từng trãi nơi tịnh tu vắng vẻ cống hiến lại cho cuộc đời, cho những người hữu duyên và cho chính cuộc sống hằng ngày mỗi chúng ta. Như hơi thở ra và hơi thở vào, cả hai đều cần thiết như nhau. mới phổ độ chúng sanh một cách chân thật.
14/09/2012(Xem: 9048)
Mấy năm trước, nhân dịp Đức Dalai Lama đến thăm thung lũng Lahoul nơi chúng tôi tu tập ở Ấn Độ; lúc đó Ngài trú lại một tuần để thăm viếng, ban lễ điểm đạo và giảng pháp. Sau buổi thuyết pháp dài mấy tiếng đồng hồ, tôi hỏi một phụ nữ Lahoul rằng: “Bác có biết Đức Dalai Lama giảng gì không?”. Bác gái trả lời: “Dạ, con không hiểu nhiều nhưng con biết Ngài giảng là, nếu ta có lòng từ bi thì đó là điều tốt”. Đúng vậy, cơ bản là như thế. Đâu có gì đáng nói hơn thế nữa phải không? Nếu chúng ta có lòng từ bi, điều đó không tốt lắm sao? Vậy từ bi nghĩa là gì?
12/09/2012(Xem: 6503)
Đã có một trong những sự phát triển sâu xa , xuất hiện từ thế kỷ 20 , tác động đến đời sống của hàng tỷ người , nhưng vẫn chưa được chú ý rộng rãi . Bên cạnh những biến đổi đầy ấn tượng về chính trị và xã hội , những phát triển về khoa học và công nghệ , cùng những hệ thống mới trong lãnh vực vận tải và truyền thông , các sử gia tương lai chắc chắn sẽ quan tâm đến sự tự do tương đối . Họ sẽ nhận thức rằng chính sự tự do tương đối đã trước hết diễn dịch rồi sau đó định hình cho cá tính của từng con người ; cuối cùng mang lại quyền tồn tại cho loài người . Tuy những yếu tố quen thuộc tạo nên tự ngã , như là tính cách sắc tộc , khu vực định cư , dòng dõi , gia đình …vẫn hiện diện , nhưng những yếu tố đó không còn quan trọng vì một chuỗi những yếu tố độc đặc mới xuất hiện trong thế kỷ 20 . Cho nên khi đã hoàn toàn chấp nhận các ý niệm dân chủ tự do như một bản chất thực nghiệm làm nền để xác định ý nghĩa của việc làm người , hiếm khi chúng ta xem xét những ý niệm đó đã làm biến đổi hình th
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]