Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Suy Nghĩ Nhanh Xung Quanh Chiếc Bàn Thờ

16/04/202020:59(Xem: 7948)
Suy Nghĩ Nhanh Xung Quanh Chiếc Bàn Thờ
Bàn thờ cha anh Hà Văn Dũng

SUY NGHĨ NHANH
CHUNG QUANH CHIẾC BÀN THỜ

 

 

                        Trong nếp sống cộng đồng của người Việt Nam nói riêng và một vài nước Á Đông nói chung, truyền thống thờ kính chư Phật, thánh thần và những người thân trong gia đình luôn được gìn giữ cũng như thể hiện một cách rất thành kính.

                       Phật giáo ngay từ lúc du nhập đã nhanh chóng góp phần và nâng cao thêm ý nghĩa thờ lạy ấy mà không đánh mất đi giá trị chân lý của chính mình. Ngược lại, qua việc thờ  lạy luôn giúp  khắc sâu thêm  đạo nghĩa Tứ Ân làm trọng của mỗi một con người. Do đó,  những ai không biết thờ  kính tổ tiên đều không là  người của xứ sở, đất nước này. Thậm chí còn bị xem là thành phần  mất gốc, phàn bội nòi giống tổ tiên, ông bà mình.

                     Tham khảo qua nhiều tư liệu lịch sử, ai ai cũng đều hiểu rõ hình thức thờ tự, cúng bái luôn có ý nghĩa và giá trị tích cực nhất định trong đời sống. Ở đây, chỉ xin nói nhiều  đến chiếc bàn thờ. lâu nay  hẳn chúng ta thường được nghe nhiều  giảng sư  nói về  hình thức mỗi chiếc bàn thờ, các  hiện vật   được bày trên đó đều mang một ý nghĩa , thể hiện được  tinh thần “ Tam Giáo Đồng Nguyên’ rất rõ nét. Nho giáo, Lão Giáo và Phật Giáo. Vũ trụ vạn vật và tinh thần duyên sinh  cũng phàng phất qua  các  vật thể được trưng bày; từ Trời Đất, Tam Đa, Tứ Tượng, Ngũ Hành cho đến  ý nghĩa hằng hữu  trong cuộc sống  với  vật chất duyên sinh  đất-nước-gió-lửa

                    Một bàn thờ được lập ra, tùy vào điều kiện và hoàn cảnh chung quanh, dù có bày biện đơn giản mấy cũng  đều đầy đủ tinh thần hay ý nghĩa của nó: Một chiếc bàn thờ! Ngoại trừ những bàn thờ Phật, Bồ tát hoặc chư vị thánh thần trong các Chùa, miếu nghiêm túc và  bàn thờ gia tiên của mỗi gia đình người Việt, thì  bàn thờ  dù chỉ có  một bát nhang, bình bông, dĩa trái cây và ba chung nước, thậm chí có thể thiếu một trong những thứ ấy cũng không làm mất đi ý nghĩa của một bàn thờ. Mất hết tất cả, ít nhất cũng chỉ là một cái lon sữa bò dùng để cắm nhanh vào, một bàn thở mà không có những thứ ấy thì sẽ không được gọi đó là bàn thờ, mà chỉ là chiếc bàn để  các vật dụng, lu hũ giày vớ, bình bông, nồi niêu, soong chảo, chén bát v..v.. không hơn không kém mà thôi. Một lư hương – bát nhang luôn đóng vai trò chủ đạo trên một chiếc bàn thờ. Còn nhớ trước đây, khi ông trời phương Đông chúng ta bị ăn cắp lấy làm của riêng, nên khi nghe câu thành ngữ dân gian “ Chín phương Trời, mười phương Phật” thì họ khó chịu và như căn bệnh lấp liếm cố hữu, quyết không chịu thua bèn sáng tác ra câu đáp rằng họ chỉ có 9 phương còn chừa 1 phương để đổ đồ dơ, chứ 10 phương hết còn đâu để đổ? Tức thì, như chúng ta đã biết đã có câu  trả lời đích đáng từ phía những người biết trân quý truyền thống  dân tộc mà hình ảnh thắp nhang trên một bàn thờ quan trọng, phải được bảo vệ và gìn giữ. Thắp nhang trên một bàn thờ ý nghĩa đến chừng nào. Đến đây nhớ làm sao câu hát của cố nhạc sĩ Lê Thương ( 1914 – 1996 )”Lấy cây hương thật quý, thắp lên thương tiếc chàng…” ( Trích Hòn Vọng Phu II – Ai Xuôi Vạn Lý . Mới thấy ý nghĩa của việc thắp nhang trên một bàn thờ.

                    Phật giáo được cho là một tôn giáo có số lượng kinh điển  nhiều nhất trong toàn bộ Kinh – Luật – Luận (Tam tạng giáo điển), do vậy Phật giáo cũng có thể trưng lên chiếc bàn ba bộ kinh tượng trưng ấy để lòe mắt thiên hạ và để bắt mọi người lễ lạy âu cũng xứng đáng làm sao. Nhưng xưa nay, dù ở quốc độ nào Phật giáo đến, cũng chưa thấy làm như thế vì sẽ bị cho là ngang ngược, xem thường  đạo nghĩa xã hội nơi mình đang hoằng hóa. Vì vậy, hòa nhập để tạo nên tin thần  Tam Giáo Đồng Nguyên tuyệt vời, được thể hiện rất rõ qua chiếc bàn thờ của người Việt hiện nay, và để từ đó cùng nhau kiến lập thêm các nghi lễ, đặt ra nhiều khuôn định cho từng nhu cầu tín hướng của xã hội. Các sách xưa như Văn Công Thọ Mai, Thọ mai Gia Lễ, và các tư liệu nghiên cứu lịch sử, trong đó có Lễ Hội Đình Đám của Toan Ánh,  Lễ Hội Đình Miếu Nam Bộ của Sơn Nam v.v… đã chỉ ra cho các thế hệ ngàn đời sau nhiều ý nghĩa cần thiết phải nên gìn giữ.

                  Trong nghi lễ Phật giáo, ý nghĩa lễ, lạy như thế nào hẳn nhiều người cũng đã tường tận, ở đây chỉ xin nói đến lễ, lạy ở đình miếu, trong tang chế hay bàn thờ gia tiên ở nhà. Trước hết cần phải phân biệt được Lễ, Lạy, Bái và  như thế nào và từng cử chỉ ấy phải được dùng trong lúc nào, hoàn cảnh nào. Trong các lễ Kỳ Yên hay tế tự ở các ngôi Đình, ngôi Miếu thì thường người ta dùng hình thức Bái là chủ yếu. Bái là hai bàn tay nắm vào nhau chứ không chắp búp sen  (chắp tay). Ở các đám tang cũng tương tự, nhất là các sui gia đi tế nhau, họ chỉ Bái là chủ yếu. Xá là chắp tay xá (có  nơi gọi là vái) chứ không cúi xuống lạy. Hình thức chắp tay xá này ngày trước ở Việt Nam chúng ta, vào những năm đầu thế kỷ 20, còn giữ gìn mỗi khi chào nhau chứ không riêng gì phần lớn các nước Đông Nam Á chung quanh chúng ta ( xem và nghe  hầu hết các  tiểu thuyết của cụ Hồ Biểu Chánh (1885 – 1958) sẽ dễ dàng nhận thấy điều này). Ngày nay hình thức chắp tay xá để chào nhau chỉ còn tồn tại và được gìn giữ trong các chùa chiền Phật giáo chúng ta mà thôi. Về hình thức Lạy thì ngoài Lạy Lễ chư Phật, Bồ Tát, Thánh, Thần, Tổ Tiên hay ông bà cha mẹ, chúng ta đều phải lạy phủ phục sát đất (trong nhà Phật chúng ta gọi là “Đầu diện tiếp túc”). Đến  viếng đám ma cũng vậy, nếu người mất  lớn tuổi hơn mình vài tuổi trở lên thì phải lạy, và lạy mấy cái tùy theo  ý định của mình thí dụ như mình sẽ đưa tang thì chỉ lạy hai lạy, còn nếu lạy bốn lạy điều này có ý nghĩa mình không trực tiếp đi đưa  được. Nếu người mất nhỏ tuổi hơn thì chỉ thắp nhang và xá vài xá chứ không lạy. Tất cả những hình thức lễ lạy như trên hoàn toàn không phải do từ Phật giáo mà ra, nhưng tuyệt vời ở chỗ Phật giáo hoàn toàn không bị dị ứng chút nào rồi ngạo mạn chỉ mặt đặt tên cho tất cả đều là …ma quỷ!

                  Chiếc bàn thờ, dù trong hoàn cảnh nào cũng không hề mất đi ý nghĩa hay giá trị nếu tuân thủ ít nhất một vài điều kiện của một chiếc bàn thờ, để trở thành nơi thiêng liêng nhất. Hãy nhìn đi, trong  hoàn cảnh  phải chịu cách ly trong các nơi phòng chống dịch Covid 19, nghe tin Cha, Mẹ hoặc chồng mất, các bệnh nhân đã lập vội chiếc bàn thờ nhờ sự hỗ trợ tận tình của của BCH, rồi cũng được những  người chung  khu cách ly đến thắp nhang, chia buồn. Những hình ảnh  chiếc bàn thờ khi ấy mới  ý nghĩa và thiêng liêng đúng thực giá trị của chiếc bàn thờ. Thử đặt một giả dụ: Nếu trong khu cách ly ấy, một người cũng lập chiếc bàn thờ mà trên đó chỉ là  bông hoa đơn điệu rồi gọi rằng đó là bàn thờ Cha hay Mẹ tôi thì nó lạnh lùng, xa lạ và vô cảm đến mức nào !( Xin xem thêm  vài ảnh  như thế trong các khu cách ly ).




Bàn thờ cha anh lê Van Hóa
Bàn thờ chồngBàn thờ chồng chị N.T.M trong khu cách ly, khu A , KTX ĐHQG. Tp/HCM.
Bàn thờ mẹ anh Nguyễn Hữu Giáp
Bàn thờ cha anh Trần Đình SỹBàn thờ cha anh Trần Đình Sỹ trong khu cách ly BCHQS Đà Nẵng.


                   Nếu hơn hai ngàn năm qua Phật giáo không hòa nhập và un đúc, hình thành nên nếp sống dân tộc Việt này, để rồi ngày nay, trên bàn thờ gia tiên, ông bà, cha mẹ hoặc người thân vừa mới mất, không có nhang đèn, hương hoa và nhất là trưng tấm bảng ‘xin miễn thắp nhang và lễ lạy” …thì có lẽ  không có con số hai ngàn năm đó và  trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc mình, Phật giáo V.N vẫn luôn là một tôn giáo bị xem là đứng ngoài vận mệnh dân tộc, luôn  đi ca ngợi và nuôi dưỡng ý đồ  mất gốc, phản dân tộc. Thấy gì không khi đứng trước một “ bàn thờ” có tấm bảng ghi dòng chữ ngạo nghễ ấy mà những người  đến viếng vẫn quen nếp xưa: Chắp tay !


Dương Kinh Thành






 

                                                                        

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/04/2017(Xem: 5764)
Thường thì chúng ta phải thoát khỏi sự tự mãn mới có thể bắt đầu hành trình tâm linh. Thí dụ như một cơn khủng hoảng trầm trọng, sự đau khổ ê chề, hay sự mệt mỏi và chán chường cùng cực vì phải tới lui và tái diễn những vai trò càng lúc càng trở nên vô nghĩa: đó là những yếu tố thúc đẩy hành trình tâm linh (John Snelling, The Elements of Buddhism", p. 117). Câu chuyện sau đây có thể nêu rõ quan điểm nầy:
04/04/2017(Xem: 9155)
Trước mùa An Cư Kiết Hạ năm nay, (chúng con) chúng tôi có duyên lành viếng thăm các tu viện Phật giáo tại bang Ladakh- India, được cơ hội thân cận các vị LạtMa nơi này và sống hòa mình với thiên nhiên của núi rừng Himalaya thanh khiết.
03/04/2017(Xem: 7912)
Phật giáo không gặp nhiều khó khăn khi phải chấp nhận sự tin tưởng của quần chúng địa phương về thần thánh, ma quỉ hay các vấn đề tâm linh khác. Thần thánh hay ma quỉ cũng chịu sự chi phối của luật nghiệp báo và các luật khác trong thiên nhiên. Thế giới của Phật gíáo đủ rộng để bao gồm các chúng sanh nầy. Phật giáo có thể chấp nhận một số cách thờ phượng, một số không thích hợp và bị loại bỏ, một số có thể được tiếp thu và hòa nhập phần nào trong tổng thể Phật giáo. Những tin tưởng và thờ phượng nầy có thể đóng vai trò quan trọng trong nếp sống của dân địa phương, nhứt là tại các xứ Á châu.
02/04/2017(Xem: 8208)
1) Xin ngài cho biết thuyết tái sanh trong Phật giáo làm việc như thế nào? Trà lời: Tất cả những kinh nghiệm về thân và tâm của chúng ta, trong đời nầy cũng như đời quá khứ và tương lai, đều do hành động (nghiệp) của thân khẩu ý trong quá khứ và hiện tại. Hành động lành đem đến kết quả mong muốn, sự tái sanh và đời sống tốt đẹp. Trong khi đó hành động xấu ác đem đến hậu quả bất thiện, sự tái sanh và đời sống không tốt đẹp. Chúng ta sẽ liên tục tái sanh theo nghiệp báo, trong vòng luân hồi, cho đến khi nào đạt được sự giác ngộ tối hậu.
01/04/2017(Xem: 13030)
Từ khi loài người có mặt trên thế gian này, sống giữa trời đất bao la với hiểu biết và việc làm còn giới hạn, nên thường lo lắng và sợ hãi bởi những suy nghĩ cạn hẹp. Họ tưởng tượng ra có một đấng tối cao toàn quyền ban phước, giáng hoạ; nhìn đồi núi chập chùng, cao vót, họ tưởng ra vị thần núi; nhìn biển rộng bao la, mênh mông, họ nghĩ có vị thần biển đang cai trị ở đó, và vô số vị thần có nhiệm vụ cai quản muôn loài vật ở thế gian này. Đó là niềm tin của con người ở thời kỳ sơ khai, tin vào thế giới thần linh một cách tuyệt đối và chấp nhận giao phó số phận của mình, uỷ thác cho thần linh sắp đặt, định đoạt. Về sau, loài người chúng ta thật diễm phúc khi có được nhân duyên tốt đẹp gặp được Tam bảo, tức ba ngôi báu Phật-Pháp-Tăng trên cõi đời này.
01/04/2017(Xem: 11751)
Đề tài oan gia đã được thuyết giảng nhiều lần từ năm 2010 đến 2013. Tập sách này đúc kết lại các buổi giảng trên. Cốt lõi oan gia chỉ có một, nhưng mỗi lần giảng thì tôi thêm vào nhiều câu chuyện rút tỉa từ kinh sách, báo chí, internet hoặc nghe kể lại. Sống ở đời, ai cũng đi tìm hạnh phúc, muốn có một gia đình vợ chồng yêu thương, chung thủy với nhau, muốn có con cái ngoan ngoãn, hiếu thảo, anh em hòa thuận. Sự mong ướcrất đơn giản như vậy nhưng nhiều người suốt đời tìm hoài không được. Ngược lại, nhiều khi những người thân thương mà ta trông chờ hạnh phúc lại là người làm khổ ta nhiều nhất. Ta muốn họ làm vừa ý ta thì họ lại luôn làm trái ý ta, chưa kể họ bắt ta phải theo ý họ, hoặc họ bỏ bê, hất hủi, mắng chửi, đánh đập ta. Tại sao cuộc đời lại trớ trêu như vậy? Tại sao những người "thân thương" không thương yêu ta đúng như nghĩa "thân thương" mà lại làm khổ ta? Mời bạn đọc tìm câu trả lời trong tập sách này.
31/03/2017(Xem: 9297)
Ngày giỗ Nhị Tổ Pháp Loa mồng 3 tháng 3 thầy trò chúng tôi quy tụ tại Pháp Loa Thiền Tự, huyện Sóc Sơn, Thủ đô Hà Nội để tưởng nhớ đến Ngài. Có mặt trong ngày đặc biệt nay có khoảng vài chục quý thầy, quý sư cô đang thực hành thiền cùng các thiền sinh cư sỹ. Buỗi lê thật đơn giản và sâu sắc, ngắn gọn và ý nghĩa.
31/03/2017(Xem: 6043)
Nữ sĩ Ninh Giang Thu Cúc "mối lái" cho chuyến xe giá rẽ, đi trong hai ngày - Sài Gòn-Di Linh, một tài xế trẻ, có tâm đạo, cũng là xe nhà, thân quen với gia đình nữ sĩ, vì thế, vừa "ngon - bổ và rẻ". Vấn đề là phải tìm đủ người cho xe bảy chỗ.
30/03/2017(Xem: 5990)
Trong bài “Sức Mạnh Của Tâm” kỳ trước có nói đến Tâm là chủ tể. Đích thực, con người trên đời này làm nên vô số việc tốt, xấu, học hành, nên danh, nên nghiệp, mưu sinh sống đời hạnh phúc, khổ đau, cho đến tu tập phật pháp được giác ngộ thành Phật, thành Thánh, Nhân bản, v.v…đều do tâm chỉ đạo (nhất thiết duy tâm tạo). Qua đây cho ta thấy rằng; tâm là con người thật của con người, (động vật có linh giác, giác hồn thật siêu việt hơn tất cả các loài hữu tình khác trên trái đất này). Phi tâm ra, bản thân con người, chỉ là một khối thịt bất động.
29/03/2017(Xem: 6824)
Phật giáo đã mọc rễ vững chắc ở Úc châu trong mấy thập niên vừa qua, nhờ vào di dân từ các xứ có văn hóa Phật giáo khác nhau và thế hệ thứ hai gồm những người di cư từ nhỏ và những người sanh ra tại đây. Cũng nhờ phần nào sự quan tâm của người Úc tới giáo pháp quí báu và nếp sống (cao đẹp) đã được chứng min
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]