Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quán tưởng - lời Phật dạy

01/12/201907:47(Xem: 6159)
Quán tưởng - lời Phật dạy

Phat_Thich_Ca_14Quán tưởng - lời Phật dạy


       “Thế Tôn lời dạy tỏ tường

       Năm điều quán tưởng phải thường xét ra

       Ta đây phải có sự già

       Thế nào tránh thoát lúc qua canh tàn

       Ta đây bệnh tật phải mang

       Thế nào tránh thoát được an mạnh lành

       Ta đây sự chết sẵn dành

       Thế nào tránh thoát tử sanh đến kỳ

       Ta đây phải chịu phân ly

       Nhân vật yêu quý ta đi miệt mài

       Ta đi với nghiệp của ta

       Dù cho tốt xấu tạo ra tự mình

       Theo ta như bóng theo hình

       Ta tạo họa phước, phân minh tỏ tường”.

     Sinh lão bệnh tử là định luật tự nhiên không ai có thể tránh thoát và cũng chính vì điều này đã tác động mãnh liệt đến tâm thức của Thái tử Sĩ Đạt Ta, để Ngài không còn thấy luyến lưu cung vàng điện ngọc, vật chất thế gian mà đổi lại một đời sống giản đơn tịch tịnh. Ngài quán sát thấy rõ đời sống con người quả thật mong manh hư ảo chỉ tính bằng hơi thở, chẳng có gì bền vững để bám víu. Tuy nhiên khi đã chứng đạt quả vị giải thoát, thấu triệt mọi điều trong thế gian Đức Phật lại luôn nhắc nhở chúng sanh rằng phải biết trân quý thời gian ngắn ngủi đời người vì đây là khoảng thời gian, là kiếp sống có thể giúp con người nhiều cơ hội để tạo được thiện duyên, nghiệp lành tích lũy hành trang cho những chuyến đi dài luân hồi vô tận, nên đừng bỏ phí đời người buông trôi vào những điều không thật.

     Phương pháp quán tưởng mà Đức Phật dạy là giúp mọi người biết cách suy tư, quán chiếu để bảo quản tâm thức tránh xa những việc làm không đem đến lợi ích cho kiếp người. Vì vậy trước khi thị tịch Niết bàn Ngài vẫn còn nhắc nhở đến sự vô thường của mạng sống để không dễ duôi

     “ Này Tăng chúng chớ sờn tấc dạ

       Giờ Niết bàn nay đã đến nơi

       Nay ta vắn tắt mấy lời

       Các con hãy nhớ trọn đời đừng quên

       Vì tạo ác, sanh lên ba cõi

       Dù thú người chẳng khỏi một phen

       Rã tan chẳng luận sang hèn

       Hữu sanh, hữu diệt, thế gian thường tình”.

  Ngài còn dạy thêm

   “ Đời là khổ muôn ngàn cảnh khổ

      Bệnh, chết, già thêm chỗ biệt ly

      Thân người nào có ra gì

      Phải chăng cõi tạm khi đi lúc về ”.

  Trong bộ sách Thanh Tịnh Đạo có ghi rằng : Ngay từ lúc một con người vừa mới tượng hình trong bào thai là chỉ còn tiến tới phía trước, không có thể dù một lần quay trở lại (Jà i.v,494 )

     “ Ngày đêm trôi qua

        Mạng sống tàn dần

        Cho đến kết thúc

        Như sông dần khô

        Như trái đã chin

        Đợi kỳ rơi rụng

        Cũng thế, hữu tình

        Khi đã sinh ra

        Nơm nớp lo sợ

        Cái chết sẽ đến

        Như chiếc bình đất

        Dù lớn dù nhỏ

        Dù nung, không nung

        Đều phải tan vỡ

        Cũng thế đời người

        Dẫn đến cái chết

        Sương đầu ngọn cỏ

       Tan dưới mặt trời

       Cũng thế đời người

       Mong manh hư ảo…(Jà i.v 122 )

   Trong dân gian VN khi đến độ 70-80 tuổi thường được xem như ‘Ngọn đèn treo trước gió’ thế nhưng thực tế thì ở bất cứ tuổi nào cũng đều là ngọn đèn trước gió cả. Bởi đã có không biết bao nhiêu chúng sinh chỉ có thể thành tựu kiếp người trong vài tháng, vài năm thậm chí vừa lọt lòng mẹ hay chưa tượng hình đã không còn tuổi thọ nữa. Kinh điển đã nói thọ mạng đời người, hạnh phúc, khổ đau, an vui hay bất hạnh đều do nơi tâm thức mỗi người, do nơi những hành vi tạo tác mà có thể tiếp cận với an lạc hay khổ cảnh. Điều này đặc biệt vô cùng quan trọng trong giáo lý Đạo Phật, đó là thuyết lý về Nhân Quả dành cho những ai có niềm tin vào những lời dạy của Đức Phật đều thấy rằng quả thật trong xâu chuỗi dài của Thập nhị nhân duyên chính là nguyên nhân để dẫn đến những cảnh giới Chư thiên, cảnh giới người, cảnh thú hay thậm chí sống như địa ngục ngay trong đời sống hiện tại này.

    Tất cả đều là sự thật vì vậy quán chiếu mà Đức Phật thường nhắc nhở là một bài học vô giá nếu biết tin nhận sẽ thấy sự quán chiếu mang lại rất nhiều điều lợi lạc mà mọi người có thể thực hành trong tất cả các thời, trong tất cả các oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi đều có thể dụng tâm quán chiếu, chỉ cần không gian an tịnh, tinh thần an tịnh là điều kiện đủ cần thiết để cho tâm suy ngẫm những lời dạy sâu sắc của Đức Phật. Ngài giảng nói rất nhiều điều trong đời sống, về mọi vấn đề trong cuộc đời mà chỉ có sự quán chiếu sâu lắng mới có thể giúp con người tĩnh tâm giải quyết được những chướng ngại, phiền não. Bởi quán chiếu là sự huân tập lâu dài, là sức mạnh tăng cường nội lực cho mỗi cá nhân mà không ai khác là chính mình.

    Đức Phật dạy nhiều điều phải thường xuyên quán chiếu như về vô thường, về hơi thở, quán chiếu về nghiệp...là để trưởng dưỡng thêm cho tinh thần, thấy biết rõ hơn về căn nguyên nhân quả, nghiệp duyên mà Tứ Niệm Xứ là một trong những pháp quán Đức Phật nói đến trong 37 phẩm trợ đạo :

          Quán Thân bất tịnh

          Quán Thọ thị khổ

          Quán Tâm vô thường

          Quán Pháp vô ngã.

   Đối với pháp môn hành thiền còn có nhiều đề mục riêng để các hành giả thực tập quán chiếu cho đến khi thành tựu an định. Giống như một ly nước vẩn đục đầy bụi đất cần phải được giữ yên mới có thể lắng xuống hết những cáu bẩn, thì tâm thức con người cũng vậy, cũng cần sự an tĩnh để giúp tâm trong sáng, lọc sạch phiền não cùng các bất thiện pháp là nhờ vào sự tĩnh tâm quán chiếu. Đức Phật là bậc Đại giác đã chứng đạt quả vị vô thượng cũng nhờ vào phương pháp thiền định quán chiếu này nên Ngài mới chỉ rõ quán tưởng vạn pháp vô thường hay về sự chết sẽ giúp tâm loại bỏ dễ dàng sự bám víu vật chất, dễ dàng bố thí, cho đi những thứ tích lũy trong thế gian không bền vững vì tất cả rồi sẽ đến lúc không thể nào sở hữu mãi được. Đó là vô ngã, chẳng có gì thuộc về ta. Trong những câu chuyện tiền thân của Đức Phật (Túc sanh truyện) kể về những kiếp sống quá khứ, Đức Phật đã từng thực hành bố thí Ba la mật như bố thí đầu, mắt, tủy, não, tay, chân…mà kinh điển gọi là bố thí bậc thượng cao nhất trong các loại bố thí, thì ngày nay khoa học đã chứng minh con người cũng có thể học Phật để làm những việc bố thí cao thượng như vậy.

   Đức Phật thuyết giảng mọi hành động tạo tác của con người đều do nơi tâm ý, mà trong mỗi chúng sanh luôn hiện hữu hai loại tâm thức hoàn toàn khác biệt nhau đó là tâm ma bất thiện và Phật tánh toàn thiện. Vì vậy cho nên mỗi người phải tự quán chiếu tỉnh thức mới mong tránh khỏi bị tâm ma bất thiện dẫn dắt. Nói thì vậy nhưng làm thật khó vì chiến đấu với ma quân của chính mình không phải là điều dễ dàng. ‘Phật cao nhất xích, ma cao nhất trượng’ Phật đã bảo như thế khi trải qua kinh nghiệm phải chiến đấu với binh ma như thế nào trước khi thành đạt đạo quả nên trong Pháp cú Kinh Ngài dạy :

      Chiến thắng muôn quân không bằng tự thắng mình

      Tự thắng mình là chiến công oanh liệt nhất.

    Thât vậy chế ngự được ma chướng trong tâm là sự dũng cảm phi thường, không phải dễ dàng, nhưng vượt qua được ma chướng ấy tự nhiên Phật tánh sẽ hiển lộ như hai mặt của ánh sáng và bóng tối vậy. Người sống có quán chiếu là người biết nhìn xa, trông rộng là người sống có chuẩn bị chắc chắn sẽ không bị hụt hẫng, khổ đau, sẽ dễ dàng thích nghi hơn trong mọi tình huống. Ở bộ sách Thanh tịnh đạo khi nói về sự chết đã viết :

     “Chết có hai loại, nghĩa là chết đúng thời hạn và chết phi thời. Chết đúng thời hạn xảy đến do hết phước đức, hết thọ mạng hay cả hai phước và thọ. Chết phi thời là chết xảy ra do nghiệp đến làm gián đoạn sinh nghiệp”.

     Vì vậy Đức Phật khuyên nếu không muốn gặp cái chết phi thời phải luôn nhớ đến

         Tránh xa các việc ác

         Làm tất cả các điều lành

         Giữ tâm ý trong sạch

     Cũng như luôn nhớ thực hành, lưu ý đến bốn pháp gọi là Tứ chánh cần :

          Ngăn ngừa ác pháp chưa sanh

          Tận diệt ác pháp đã sanh

          Phát triển điều thiện chưa sanh

          Tăng trưởng việc lành đã sanh

     Đức Phật là người rất tinh tế, dẫn dắt tỷ mỉ mọi điều mọi lẽ để giúp con người có thể vượt qua khổ cảnh bằng phương pháp quán tưởng. Tuy nhiên trong thế giới ngày nay đời sống đầy phức tạp, nhiễu loạn làm cho tâm thức vẩn đục dẫn đến căng thẳng, mệt mỏi gây nên nhiều loại bệnh về tâm thần cho não bộ như trầm cảm hay một loại bệnh mới khó trị, khó ngăn ngừa làm hư hoại dần não bộ con người hiện nay ở mức nghiêm trọng cần phải báo động đó là sự tự tử đang xảy ra ở mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi trong xã hội. Vì vậy thời điểm này là rất cần thiết cho não bộ được nghĩ ngơi tĩnh lặng, là cách chữa trị tốt nhất. Như chất phèn chua làm lắng sạch cáu bẩn của nước thì sự quán chiếu, tĩnh tâm sẽ giúp thanh lọc những điều u uẩn, buồn chán trong tâm thức, làm trong sáng, mạnh mẽ hơn cho não bộ để vượt qua những bóng đen của tiêu cực, sầu bi.

  Thật sự quán chiếu suy ngẫm về những lời dạy sâu xa chí lý của Đức Phật mới thấy được đời sống tuy ngắn ngủi nhưng quý báu biết chừng nào. Cho dù không biết sau khi thân hoại mạng chung sẽ đi về đâu nhưng với những thiện pháp đã làm cùng với tâm thức an tịnh quán chiếu, nghiêm giữ được các giới luật căn bản đạo đức sẽ cho mọi người một cuộc sống an vui thanh thản nơi tâm hồn không lo âu, còn làm tăng trưởng thêm niềm tin vào những lời chỉ dạy chân thật của Đức Phật về Nhân Quả là điều vẫn được các vị sư truyền giới nhắc nhở trong các khóa lễ :

    “Các chúng sanh được sanh về cõi Trời cũng nhờ giữ giới, các chúng sanh được giàu sang cũng nhờ giữ giới, các chúng sanh được giải thoát nhập Niết bàn cũng nhờ giữ giới. Bởi các cớ ấy chư thiện tín phải ráng thọ trì giới luật cho được trong sạch đừng để lấm nhơ”.

      Với đời sống bộn bề, bận rộn như hiện nay thiết nghĩ rất cần đến sự tĩnh tâm quán chiếu như lời dạy của Đức Phật là cách thức hiệu quả nhất để cân bằng cuộc sống, mang lại lợi ích tích cực thật sự cho đời người cả về mặt tinh thần lẫn thể chất. Dành nhiều thời gian cho sự quán chiếu về vô thường, khổ, không, vô ngã là hỗ trợ phần nào cho việc tu tập Tứ vô lượng tâm để thực hành rải tâm từ đến muôn loại chúng sanh hằng ngày :

    “ Nguyện cho tất cả chúng sanh đừng có oan trái lẫn nhau. Hãy cho được sự an vui. Đừng làm hại lẫn nhau. Đừng hẹp lượng. Hãy cho được sống lâu. Đừng có bệnh hoạn. Hãy cho được thành tựu đầy đủ. Hãy giữ mình cho được sự an vui. Tất cả chúng sanh đến khổ rồi xin đừng cho có khổ, đến sự kinh sợ rồi xin đừng cho kinh sợ, đến sự thương tiếc rồi xin đừng cho thương tiếc”.

                                                 California. Thanksgiving 28-11-2019

                                                                Nam Phương  ( Nghiêm Thủy )

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/10/2014(Xem: 8411)
Hồi Thầy mới vào chùa năm 16 tuổi, trên phương diện danh từ thì mình đã được gọi Bụt Sakyamuni là Bổn Sư (Nam Mô Đức Bổn Sư Bụt Sakyamuni). Bổn Sư (tiếng Bắc là Bản Sư) có nghĩa là Thầy tôi. Nhưng kỳ thực đức Bụt mà mình được gặp khi mới vô chùa không phải là một vị Thầy đích thực mà là một nhân vật rất huyền thoại, đầy phép lạ, đầy thần thông, rất xa cách với con người. Mình không được gặp Bụt của đạo Bụt nguyên thủy mà cũng không được gặp Bụt của đạo Bụt tiểu thừa. Hình ảnh Bụt nguyên thủy là một vị Thầy ăn mặc rất đơn sơ, trải bồ đoàn tọa cụ ngồi trên đất, ngồi pháp đàm, nói pháp thoại và ăn cơm với các Thầy. Mình không gặp được hình ảnh đó, vì vậy trên phương diện danh từ mình được gọi là Thầy tôi nhưng kỳ thực giữa mình với đức Sakyamuni có một khoảng cách rất lớn. Đó là một nhân vật hoàn toàn thần thoại, đầy phép lạ.
31/10/2014(Xem: 8275)
Pháp môn mà mình nói tới đó là pháp môn xây dựng tăng thân, được gọi tắt làdựng tăng. Đó cũng là công trình của Bụt, đó là sự nghiệp của Bụt. Ngay sau khi thành đạo, Bụt đã biết rất rõ rằng nếu không xây dựng được một tăng thân thì mình không thể nào thực hiện được sự nghiệp của một vị Bụt. Vì vậy Ngài đã để ra rất nhiều thì giờ và công sức để xây dựng một tăng thân. Ngay trong năm đầu sau khi thành đạo, Bụt đã xây dựng một tăng thân xuất gia gồm có 1250 vị, và tăng thân này đầu tiên xuất hiện tại một rừng kè ở ngoại ô thành phố Rajagraha. Năm Ngài 80 tuổi, Vua Prasenajit (Ba Tư Nặc) có nói một câu rất hay để ca ngợi Bụt về công trình xây dựng tăng thân ấy. Vua nói: Bạch đức Thế Tôn, mỗi lần con thấy tăng thân của đức Thế Tôn là con lại có niềm tin nhiều hơn ở nơi chính đức Thế Tôn.
31/10/2014(Xem: 7674)
Mùa Xuân ta lên núi Hăm hở làm sơn ̣̣đồng Bỏ con đường khói bụi Cho sách vở vời trông... Rời mái trường Vạn Hạnh, còn đang lang thang dạy giờ ở các trường Bồ-đề, ngong ngóng một xuất học bỗng du học, tôi bất ngờ bị Sư Bà áp giải lên núi, sau lời phán quyết chắc nịch: “Con phải học một khóa tu Thiền ba năm với Thượng Tọa, xong rồi muốn đi đâu cũng ̣̣được... Còn bây giờ, dứt khoát là…Không!”.
28/10/2014(Xem: 8005)
Có những gì cần phải sửa trong Kinh Phật hay không? Có những gì cần phải cắt bớt khỏi Kinh Phật, hay cần phải bổ túc thêm cho Kinh Phật hay không? Câu trả lời tất nhiên không dễ. Vì người xưa đã nói, nếu chấp vào nghĩa từng chữ một, có thể sẽ hiểu nhầm ý của Phật; nhưng nếu rời kinh một chữ, lại hệt như lời ma nói. Nguyên văn: Y kinh giải nghĩa, tam thế Phật oan; ly kinh nhất tự, tức đồng ma thuyết.
26/10/2014(Xem: 9469)
Gió mùa thu năm nay, trở nên khô khốc, ảnh hưởng bởi nạn hạn hán trầm trọng nhất trong nhiều thập kỷ qua ở xứ này. Nhưng đâu đó trên hành tinh, mưa thu lất phất bay, và gió thu se sắt gợi buồn; cũng có nơi mưa ngập cả các con lộ chính của thành phố lớn để người và xe cộ phải lội bì bõm trong giòng nước ngầu đục. Và chỗ nọ, chỗ kia, làn gió dân chủ, hòa bình, khơi niềm hứng cảm cho sự vươn dậy của ý thức tự do, khai phóng.
24/10/2014(Xem: 15059)
Một kỷ nguyên mới canh tân kỹ thuật đang lan tràn khắp thế giới và đang tiến đến trưởng thành, đó là mạng lưới thông tin toàn cầu internet (world wide web), một hệ thống truyền thông và môi trường học có sức mạnh. Không nên xem Internet chỉ là một phương tiện mới để truyền bá Giáo Pháp với một hình thức mới, mà Internet còn có tiềm năng là một căn cứ cho một cộng đồng Phật Giáo trên mạng (online) cống hiến những giá trị xã hội và tâm linh cho mọi người.
24/10/2014(Xem: 8637)
Chuyện kinh Phật kể rằng, tự ngàn xửa ngàn xưa, hằng hà sa kiếp trước, có con thỏ ngọc nọ thấy bầy đàn đang lúc giá rét cuối đông, chẳng kiếm được chút rau cỏ gì cho nguôi cơn đói bụng ; thỏ nọ liền “hưng khởi đại bi tâm” nhảy vào đám lửa đang cháy rực hồng, tự biến thân mình thành thịt nướng cho bầy đàn ăn đỡ đói. Khi bầy đàn thỏ no nê thì cũng là khi thân thỏ nọ chỉ còn sót lại mấy miểng xương đen. Phật biết đại bi tâm của thỏ từ đầu, bèn nhặt xương thỏ đem về cung quảng, phục sinh và đặt tên cho thỏ là NGỌC THỐ - có nghĩa là Thỏ Ngọc, một sinh thể có đại bi tâm quý như ngọc; thứ ngọc Phật từng nói đến trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Bấy giờ, cuộc đời thỏ ngọc ngày đêm yên ả nơi cung trăng, tự thân sớm hôm trau dồi công dung ngôn hạnh khiến biết bao người chung quanh nâng niu, thương yêu chiều chuộng.
23/10/2014(Xem: 13414)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia. Tuyển tập các bài viết này gồm ba mục đích chính: (i) Xóa bỏ mê tín dị đoan và các tập tục hủ lậu, (ii) Giới thiệu Phật pháp căn bản, giúp người đọc hiểu rõ các giá trị thiết thực của đạo Phật, (iii) Đính chính các ngộ nhận về các khái niệm thầy tu, giải thoát, giá trị trị liệu của thiền và bản chất hạnh phúc trong hiện tại. Dầu được viết trong nhiều thời điểm khác nhau cho nhiều đối tượng độc giả, tác giả chú trọng đến việc giới thiệu về hình thái đạo Phật nguyên chất, xây dựng niềm tin bằng lý trí, giới thiệu đạo Phật từ góc độ ứng dụng trong đời sống, so sánh những điểm dị biệt và sự vượt trội của đạo Phật đối với các truyền thống và tín ngưỡng khác.
23/10/2014(Xem: 8926)
Bằng cách này hay cách khác, Đức Phật luôn gợi nhắc cho chúng ta rằng mỗi người chúng ta đều sở hữu các khả năng và phẩm chất tốt đẹp, cần phải biết vận dụng và phát huy để làm cho cuộc sống trở nên giàu sang hiền thiện, tránh mọi khổ đau và để thực nghiệm hạnh phúc an lạc. Trong bài kinh Nghèo khổ thuộc Tăng Chi Bộ, Ngài đơn cử câu chuyện một người nghèo túng về của cải vật chất nhưng không biết cách nỗ lực khắc phục tình trạng nghèo khó của mình nên phải liên tiếp rơi vào các cảnh ngộ khó khăn để nhắc nhở chúng ta về các tai họa khổ đau mà chúng ta sẽ phải đối diện, nếu không biết nỗ lực nuôi dưỡng và phát huy các phẩm chất đạo đức và trí tuệ của mình.
23/10/2014(Xem: 10728)
Tục lệ, hay những lễ nghi đã trở thành thói quen, là văn hóa được ước định của một dân tộc. Sự hình thành tục lệ thường chịu ảnh hưởng của phong tục tập quán trong dân gian, hoặc do sự thực hành các tín ngưỡng tôn giáo lâu ngày của một cộng đồng. Sau khi truyền vào Trung Quốc, Phật giáo không chỉ đi sâu vào dân gian, hòa nhập với đời sống, từng bước hình thành nên một bộ quy phạm lễ nghi về “hôn táng hỷ khánh” (dựng vợ gả chồng, chôn cất người chết, thể hiện niềm vui, bày tỏ việc mừng); mà còn có tác dụng thay đổi phong tục đối với các thói quen dân gian mang đậm màu sắc mê tín trong các việc như: tổ chức hôn lễ rườm rà; đoán số mệnh dựa trên bát tự(1); miễn cưỡng tổ chức việc vui trong lúc gia đạo đang gặp rắc rối với mong muốn giải trừ vận xui, tà khí, chuyển nguy thành an, gọi là xung hỷ; thực hành tục minh hôn(2); duy trì lối khóc mộ; xem phong thủy…
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]