Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bệnh và Thuốc Thật, Thuốc Giả

07/10/201920:23(Xem: 7143)
Bệnh và Thuốc Thật, Thuốc Giả


thuoc gia_photo 1
BỆNH VÀ THUỐC THẬT, THUỐC GIẢ

 

 

          Tật bệnh. Có bệnh phải uống thuốc đó là chuyện đương nhiên. Uống thuốc để chữa bệnh, để mau hết bệnh. Nhưng thuốc tốt, uống đúng thuốc, đúng liều lượng thì mới có khả năng lành bệnh. Đây, không còn là chuyện đương nhiên, mà là sự mong muốn, lòng khát khao. Ai cũng ước mong không có bệnh. Khi có bệnh mong được gặp thầy giỏi, uống đúng thuốc và sớm khỏi bệnh.

 

          Thời gian gần đây, xã hội đang xôn xao về việc mua bán thuốc tây giả khắp nơi, lớn nhất là vụ thuốc ung thư giả của công ty VN Pharma. Kết luận điều tra thì đã có, kết án cũng đã xong. Tuy nhiên, vụ thuốc giả lớn nhất hiện nay, vẫn có nhiều dòng nhận thức đánh giá khác nhau. Đặc biệt là: lỗi từ ai? ai chịu trách nhiệm cho vụ này? Người thì  nói thuốc đúng tiêu chuẩn, không giả, kẻ nói thuốc giả, sản xuất không đúng phương dược, lập luận đúng sai, bảo vệ chứng cứ, rồi bao nhiêu kết quả nghiên cứu khoa học mới... dẫn đến tranh cãi gay gắt. Hậu quả lớn, đau khổ lớn cho người bệnh lại chồng chất, niềm tin con người xáo trộn kéo dài. Để giải quyết hậu quả lớn lao này từ mặt nhận thức và lấy lại niềm tin của cộng đồng về lương y, thầy thuốc, lãnh đạo chuyên ngành thì chắc không bao giờ xong. Ai cũng có tâm thức, ai cũng có sở kiến và ai cũng đều có bản ngã to lớn (Tự ngã), không ai chịu thua ai.

 

             Làm thuốc giả, bán thuốc giả, quả thật là hành vi bất thiện, độc ác, đáng lên án,hết chổ nói. Nhưng con người vẫn làm, vẫn bán và vẫn lừa dối nhau, không có bi tâm. Cho đến người bệnh, kẻ nghèo khổ, thiếu thốn cũng không thoát khỏi căn bệnh trầm kha của loài người,đó là sự tham lam.

             Lòng tham là căn bệnh nan y, là độc tố cực mạnh trong thân người, cũng như thuốc giả và thuốc thiệt uống vào phá hủy thân thể và tinh thần mới ghê gớm. Độc tố tham lan truyền nhanh như một thứ vi trùng vô hình nhưng hữu hình trong sự công phá rất mạnh và hậu quả hữu hình.

            Từ lòng tham này, con người có thể làm tất cả những gì mình muốn, vượt qua nhận thức ước lệ, bộ quy tắc đạo đức con người. Có những nguyên tắc cơ bản làm người thì không được làm như thế, bởi vì con người phải có những hành vi trong tầm hạn chế của đạo đức mà xã hội loài người đưa ra. Do vượt qua những điều này, con người tự sát hại nhau, hơn thua dẫn đến tranh cãi, hận thù, hiềm khích kết quả là sân hận.

            Sân hận là một độc tố thứ hai. Sự nguy hiểm khi sân hận nổi lên từ tâm thức con người, hậu quả cũng không thua kém (một đóm lửa sân có thể thiêu đốt một rừng công đức). Nghĩa là khi sân hận nổi lên, con người không kìm chế được, có thể phá huỷ những gì mà chính con người đã cất công tạo dựng trong thời gian dài, bởi chỉ một phút sân hận.

 

           Tại sao người bệnh bị uống thuốc giả? Tại sao phải chế và bán thuốc giả? Trong khi ai cũng biết rằng đó là những hành vi độc ác và sẽ có những hậu quả không thiện lành; Tại sao phải tranh luận, bào chữa đúng sai, ai cũng quyết tâm nắm lấy ý kiến của mình và cố tình phủ nhận sự thật? Tất cả chỉ là lòng si mê.

           Ngu si là độc tố thứ ba, là một tật bệnh nguy hiểm, vi trùng si mê này có trong tất cả con người và rất khó chữa trị; Đó cũng là một loại độc dược có công năngphá hủy mọi sự tốt lànhcủa con người, phá hoại tất cả những kháng thể thiện mỹ liên quan đến chúng. Một độc dược có yếu tố quyết định cho tất cả hành vi. Ngu si là một danh từ bao hàm tất cả những danh từ mà con người dành chỉ cho những hành vi mê mờ, chúng ta thường hiểu là Vô minh.

 

            Sự si mê này dẫn theo một chuỗi dài tâm thức đen tối, được diễn tả như ngã si, ngã mạn, ngã ái, ngã kiến. Tựu trung, từ bản ngã con người, cái Ta mà ra (duy ngã độc tôn). Tại sao phải tham lam, si mê nên tham. Tại sao phải sân hận, si mê nên sân hận. Cái ta đắm say, yêu mến, đúng sai, nắm giữ quan điểm lập trường v.v... vì không hiểu rõ được dòng chảy của các pháp trong một dây truyền vô tận. Tóm lại là do không có chánh kiến.

 

           Thấy sự thật của các pháp là chánh kiến, ngược lại là tà kiến. Điểm tựa, sự phân định, hiểu được đúng sai, phải trái chính là chánh kiến, yếu tố trong chánh đạo. Người có chánh kiến thì không cần lập luận đúng sai phải trái, bởi vì người có chánh kiến thì tâm thức của họ thường xuyên vắng mặt của bản ngã, cái ta. Chánh kiến là sự thấy biết về các pháp trong một quy luật nhất định của các pháp. Đó là nhân duyên sanh. Các pháp là như vậy, thấy như vậy, sự thấy vượt qua ngoài, đứng trên sự đúng sai phải trái. Do vậy, chánh kiến phải được trau dồi, phải được tư duy và học hỏi. Cho đến khi nào, con người còn suy tưởng quá nhiều bởi sự tác động của bản ngã, thì lúc ấy vẫn còn hơn thua phải trái và còn đau khổ, bệnh tật trầm luân. Muốn vượt qua rào cản tối tăm và nguy hiểm này, con người cần phải dẹp bỏ bản ngã của mình, để suy xét tường tận, trước khi đưa ra quyết định cho một hành vi nào đó. Như vậy mới có khả năng kiểm soát được vi trùng độc hại nằm sẳn trong người. Tựa như, người bệnh ung thư và bác sĩ đang kiểm soát vi trùng ung thư cho bệnh nhân.

 

          Bệnh- Thuốc thật- Thuốc giả vẫn đang là vấn đề nóng bỏng, nhưng không phải để chúng ta tranh luận mà để mọi người ý thức, cùng lắng lòng tìm ra cách giải quyết để ngăn ngừa bệnh và chữa trị. Có như thế, vi trùng độc hại, hậu quả dẫn đến khổ đau, phiền não mới có hồi kết thúc.

 

         Xu hướng hiện nay, con người thường nghiêng về cái thấy và nghe trước mắt. Nghiêng về số đông, danh nghĩa, gọi chung là trào lưu của cơn phẫn nộ hoặc trào lưu của sự phù phiếm giả danh. Mà ít ai thấy được bản chất thật của nội hàm nhân duyên nên khó tìm ra cửa thoát trong ngôi nhà lửa phiền não. Và đâu là cánh cửa để dẫn đến bình an?

 

Huệ Giáo

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2021(Xem: 5001)
Nhà thiền có danh từ Tọa Xuân Phong để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp. Danh từ đó, tạm dịch là “Ngồi Giữa Gió Xuân” Mùa Xuân chẳng phải là mùa tiêu biểu cho những gì hạnh phúc nhất trong bốn mùa ư? Hạ vàng nắng cháy, vui chơi hối hả như đàn ve sầu ca hát suốt mùa để cuối mùa kiệt lực! Thu êm ả hơn, nhưng nhìn mây xám giăng ngang, lá vàng lả tả, tâm- động nào mà không bùi ngùi tưởng tới kiếp nhân sinh?
07/02/2021(Xem: 5229)
Chú mục đồng chậm rãi bước xuống sông. Bên cạnh chú, con trâu lớn nhất đàn ngoan ngoãn xuống theo. Đôi mắt hiền lành của nó nhìn chú như mỉm cười, tin tưởng và thuần phục. Những con trâu bé hơn lại nhìn bước đi vững chãi, an lạc của con trâu đầu đàn mà nối nhau, cùng thong thả qua sông. Đây là khúc sông cạn mà chú đã dọ dẫm kỹ lắm. Đáy sông lại không có những đá nhọn lởm chởm có thể làm chân trâu bị thương. Bên kia sông, qua khu rừng có những cội bồ đề râm mát là tới đồng cỏ rộng. Mùa này, sau những cơn mưa, cỏ non vươn lên xanh mướt, đàn trâu gồm bẩy con mà chú có bổn phận chăm sóc tha hồ ăn uống no nê sau những giờ cực nhọc cầy bừa ngoài đồng lúa.
07/02/2021(Xem: 8013)
Khi những cơn bảo và áp thấp nhiệt đới hung hãn nhất vừa tạm qua đi, khí trời phương Nam cũng trở buồn se lạnh. Nhiều người cho đó là hoàn lưu của những cơn bão miền Trung mà tất cả con dân “bầu bí chung dàn” vẫn còn đang hướng về chia sẻ, nhưng ít người nhận ra rằng đó chính là cái se lạnh của mùa đông phương Nam, báo hiệu mùa xuân sắp đến nơi ngưỡng cửa của bộn bề lo toan hằng năm.
06/02/2021(Xem: 6152)
Mười bức “Tranh Chăn Trâu” trong phần này là của họa sư Nhật Bản Gyokusei Jikihara Sensei, vẽ vào năm 1982 nhân một cuộc thăm viếng thiền viện Zen Mountain Monastery ở Mount Tremper, New York, (Hoa Kỳ). Họa sư vẽ để tặng thiền viện. Các bài thơ tụng thời nguyên gốc của thiền sư Quách Am viết vào thế kỷ thứ 12. Thơ tụng được chuyển dịch ở đây bởi Kazuaki Tanahashi và John Daido Loori, sau đó được nhuận sắc bởi Daido Loori để mong tạo lập ra những hình ảnh và ẩn dụ cho thêm giống với phong cảnh núi sông ở quanh thiền viện Zen Mountain Monastery. Thiền sư Daido Loori là người lãnh đạo tinh thần và là tu viện trưởng của thiền viện này.
04/02/2021(Xem: 5633)
Hôm qua mình có giới thiệu cuốn sách Buddhism in America (Phật Giáo Mỹ) của Richard Hughes Seager. Có bạn hỏi thêm muốn tìm hiểu Phật Giáo Mỹ nên nhờ mình giới thiệu vài cuốn. Nghĩ rằng đây là câu hỏi hay nên mình xin viết giới thiệu 7 cuốn sách để nhiều người lợi lạc. 1. Cuốn The Faces of Buddhism in America (Diện Mạo của Phật Giáo ở Mỹ) do Charles Prebish 2. Buddhist Faith in America (Đức Tin Phật Giáo ở Mỹ) tác giả Michael Burgan 3. Buddhism in America của Richard Huges Seager (1999, tái bản 2012) 4. Buddhism in America của Scott Mitchell 5. Altered Traits: Science Reveals How Meditation Changes Your Mind, Brain, and Body, 2017 6. A Mindful Nation: How a Simple Practice Can Help Us Reduce Stress, Improve Performance, and Recapture the American Spirit, 2012, 7: American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
01/02/2021(Xem: 4272)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 9195)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 5738)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
01/02/2021(Xem: 7048)
Phần này bàn về các danh từ gọi dụng cụ gắp cơm và đưa vào miệng (ăn cơm) như đũa hay trợ, khoái, giáp cùng các dạng âm cổ của chúng. Các chữ viết tắt khác là Nguyễn Cung Thông (NCT), Hán Việt (HV), Việt Nam (VN), TQ (Trung Quốc), ĐNA (Đông Nam Á), HT (hài thanh), TVGT (Thuyết Văn Giải Tự/khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), TV (Tập Vận/1037/1067), TNAV (Trung Nguyên Âm Vận/1324), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), TViB (Tự Vị Bổ/1666), TTTH (Tứ Thanh Thiên Hải), KH (Khang Hi/1716), VBL (tự điển Việt Bồ La/1651) ĐNQATV (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị/1895).
29/01/2021(Xem: 5745)
Ở đời không phải ai cũng chấp nhận sự chân thành của bạn. Những người quanh ta luôn công nhận việc tốt mà ta đã và đang làm, trở thành đương nhiên như thế… và đến một ngày kia bạn quá mệt mỏi liệu có ai bên cạnh bạn và cảm thông với bạn không? Vì trong suy nghĩ của họ bạn là người tự nguyện cho đi..., trong hoàn cảnh như thế liệu bạn có tiếp tục cho đi nữa hay không? Tất nhiên là có, chúng ta hãy tiếp tục sống tốt nhưng phải là người tốt thông minh. Hãy tin rằng không có nỗ lực nào là uổng phí, hãy có quan điểm và lý tưởng của chính mình, luật nhân quả luôn đền bù cho bạn xứng đáng. Nhà Phật dạy có Luân Hồi-Ngiệp Báo. Không ai phủ nhận rằng quan tâm chăm sóc người khác là tốt, nhường nhịn người khác đều là tốt, tuy nhiên quan tâm quá, họ sẽ làm khó ta vạn lần, nhiệt tình quá họ sẽ đâm ra nghi ngờ, thậm chí khiến bạn bị tổn thương …
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]