Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chân Thật Nghĩa của Giàu và Vui

08/08/201906:08(Xem: 7766)
Chân Thật Nghĩa của Giàu và Vui
hoa hong3
Chân Thật Nghĩa của Giàu và Vui

Bài của THƯỢNG TỌA SAKYA MINH-QUANG


Đất trời kho báu của chung
Bấy lâu sao mãi bần cùng uổng oan?
Ngày xuân hoa đẹp khắp non
Đêm thu gió mát trăng tròn riêng ai?
Thở vào, hương thoảng đào mai
Thở ra, ngắm ánh trăng lay bên cầu
Đây nguồn hạnh phúc nhiệm mầu
Giàu vui nào phải tìm cầu đâu xa!
Thở vào, nhẹ nhõm thở ra 
Có vào, hạnh phúc cho ra mọi người
Giàu nhờ kho báu đất trời
Lấy dùng vô tận, ai người cấm ngăn?
Vui vì sống có thiện căn
Biết chia sẻ những khó khăn với người
Trăng trong, gió mát, hoa tươi…
Một kho vô tận xin người lấy cho!
(Kho Báu Vô Tận – Sakya Minh-Quang)

Bức tranh thủy mạc nổi tiếng của họa sĩ Vũ Nguyên Trực (Wu Yuan-chih) đời nhà Kim (1149-1189) vẽ buổi dạo chân núi Xích Bích (Red Cliff) của Tô Đông Pha với hai người bạn và ông chèo thuyền.

I. Dẫn Nhập

Vào đêm trăng rằm tháng bảy năm Mậu Tuất (1082), Tô Đông Pha (1037-1101), một trong tám vị đại văn hào đời Đường Tống (Đường Tống bát đại gia), đang lúc bị lưu đày ở Hoàng Châu, đã cùng bạn chèo thuyền ngắm trăng, dạo chơi dưới chân núi Xích Bích. Trong cảnh gió mát trăng thanh, đàn hát vui vẻ, bỗng có một vị khách thổi lên một khúc tiêu ai oán. Tô Đông Pha hỏi lý do. Vị khách này giải thích vì tức cảnh sinh tình, chèo thuyền bên dưới ngọn núi Xích Bích nên nhớ lại trận chiến Xích Bích năm xưa, nơi Chu Du đã dùng hỏa công phá tan đội quân hùng mạnh của Tào Tháo. Anh hùng như Tào Tháo, thao lược như Chu Du mà nay có còn đâu?

Rồi vị khách lại nói, “Huống chi tôi và ông chỉ như kẻ ngư phủ đánh cá hay tiều phu đốn củi ở bến sông, làm bạn cùng hưu nai tôm cá. [Chúng ta] chèo một chiếc thuyền con, mời nhau một bầu rượu nhạt, gởi kiếp phù du nơi trời đất, như hạt thóc nhỏ bé giữa vô cùng! Tôi buồn vì sinh mệnh sao ngắn ngủi, lại hâm mộ con sông dài chảy vô cùng! [Ước gì,] được cùng tiên phi hành để ngao du, ôm trăng sáng mà sống mãi. Biết rằng mình không thể làm được như vậy, nên gởi tấm lòng tiếc hận này vào tiếng gió buồn thương!

Trước sự bi thương của bạn, Tô Đông Pha với cái nhìn thấu đáo và sâu sắc hơn, đã an ủi và thức tỉnh vị khách chung thuyền, “Bạn có biết về dòng sông và ánh trăng chăng? Dòng sông tuy trôi qua như thế mà chưa từng đi, ánh trăng tuy tròn khuyết như vậy nhưng không thêm bớt. Bởi vì, nhìn từ góc độ biến hóa thì trời đất không thể không thay đổi dù chỉ trong một chớp mắt; còn nhìn từ góc độ bất biến, thì vật và ta đều vô cùng, cần gì phải hâm mộ? Lại nữa, trong cõi trời đất vạn vật đều có chủ. Nếu không phải là cái mình có, thì ta không được lấy dù chỉ là mảy may. Còn như, gió mát ở trên sông, trăng sáng nơi lưng núi, tai chạm đến thành tiếng, mắt bắt gặp thành sắc, nếu lấy đó thì không ai ngăn cấm, nếu dùng đó sẽ không bao giờ hết. Cho nên, trời đất chính là kho vô tận. Đây là cái mà tôi cùng với bạn thỏa thích lấy dùng.”

Nghe xong, vị khách chừng như tỉnh ngộ, vui vẻ trở lại.

(Tiền Xích Bích Phú-Sakya Minh-Quang dịch)

Như vậy, tiếng tiêu buồn bã chính là tiếng lòng của người khách cùng dạo thuyền bên núi Xích Bích với Tô Đông Pha thuở nào. Nhưng thực ra, đây cũng là nỗi niềm của chúng sinh khi phản tỉnh lại kiếp nhân sinh ngắn ngủi và nhỏ nhoi giữa trời đất bao la vô tận. Lý Bạch (701-762), được xưng tụng là Thi Tiên đời Đường, từng chia sẻ một nhân sinh quan tương tự:

Anh thấy chăng?
Hoàng hà nước tự trời cao
Trôi ra biển cả chẳng bao giờ về.
Anh thấy chăng?
Cha soi kính tóc bạc phơ
Sớm tơ, tối tuyết, ngẫn ngơ chợt buồn!
(Tương Tiến Tửu-Sakya Minh-Quang dịch)

Còn Trần Tử Ngang (661-702), được xưng tụng là Tổ Thơ của Đường Thi(Đường Thi Thi Tổ), lại càng trực tiếp hơn:

Trước: chẳng thấy người xưa
Sau: không gặp ai đến
Ngẫm trời đất mênh mông
Riêng đau lòng rơi lệ
(Đăng U Châu Đài Ca-Sakya Minh-Quang dịch)

Như vậy, nỗi buồn của Lý Bạch, dòng lệ của Trần Tử Ngang cũng đồng điệu với tiếng lòng thê thiết của vị khách dạo chơi dưới chân núi Xích Bích thuở nào. Nhân sinh quan về cuộc đời vô thường ngắn ngủi này tuy không sai, nhưng chưa minh triết và thấu đáo.

Thượng Tọa Sakya Minh Quang đã có gần bốn mươi năm kinh nghiệm tu học và hoằng dương Chánh Pháp qua việc biên soạn sách vở, phiên dịch kinh điển, sáng tác thơ văn, và giảng dạy giáo lý. (Hình: Tu Viện Thiện Tường)

II. Đạt Quan: Dòng Sinh Mệnh Vô Cùng, Người Vật Không Hai

Vị khách trên thuyền đó có thể là một nhân vật hư cấu, phản ảnh thế giới nội tâm phức tạp, luôn xung đột giữa hai thái cực: tình và trícủa Tô Đông Pha. Có lẽ, Tô Đông Pha đã tự an ủi, thức tỉnh và khích lệ mình trong bước đường hoạn nạn. Trong nốt trầm trên đường hoạn lộ, bị giam vào tử ngục, rồi sau đó được phóng thích, nhưng bị lưu đày ở chốn hoang dã là Hoàng Châu, có lẽ nhiều lúc Tô Đông Pha đã chán nãn, buồn đau trước cuộc đời thăng trầm, vinh nhục và đầy dẫy sự bất công. Chính vì tài hoa xuất chúng, thơ văn xuất cách, nên Tô Đông Pha được nhiều người hâm mộ, kính trọng, nhưng cũng không ít người đố tài, ganh tỵ, nhất là trong giới quan trường. Lại thêm, ông cá tính ngay thẳng, trực ngôn, không chịu xu phụ quyền quý, “không hợp thời nghi” nên đã đụng chạm đến quyền lợi của những kẻ đương quyền, khiến một đời lao đao lận đận vì những gièm pha, vu khống.

Nhưng có lẽ, nhờ những trải nghiệm khổ đau đó, Tô Đông Pha càng gần gũi và học Phật sâu sắc hơn. Qua chiêm nghiệm Phật lý, Tô Đông Pha đã có được một nhân sinh quan sâu sắc. Nhờ nhân sinh quan sâu sắc này, những tác phẩm sáng tác thời lưu đày ở Hoàng Châu (1080-1084), nhiều bài đã trở thành tuyệt tác, mà bài Tiền Xích Bích Phú là một ví dụ điển hình.

Trong bài phú này, Tô Đông Pha đã an ủi cho vị khách chung thuyền, mà đúng hơn là tự nhắc nhở mình: “Dòng sông tuy trôi qua mãi như thế mà chưa từng đi, ánh trăng tuy tròn khuyết như vậy mà rốt cuộc không có thêm bớt. Bởi vì, nhìn từ góc độ biến hóa thì trời đất không thể không thay đổi dù chỉ trong một chớp mắt; còn nhìn từ góc độ bất biến, thì vật và ta đều vô cùng, cần gì phải hâm mộ?”

Ý đoạn văn trên Tô Đông Pha bảo rằng: Tất cả vạn vật đều vô thường, sinh diệt trong từng sát-na. Đừng cho rằng dòng sông là một thực thể chảy dài vô tận. Thực ra, nếu nhìn từ góc độ “biến” hay vô thường, dòng sông đang sinh diệt, biến đổi từng phút từng giây, không phải dài lâu như ta vẫn nghĩ. Vạn vật đều vô thường sinh diệt trong từng sát-na. Vì vậy, ta không cần phải hâm mộ cái lâu dài của vật mà tiếc hận cho sự ngắn ngủi của đời người, vì tất cả đều sát-na vô thường, bình đẳng như nhau! Lại nữa, từ góc độ “bất biến” nhìn, sinh diệt chỉ là giả tướng duyên khởi của vạn vật, còn thật tướng là tánh không bất sinh bất diệt! Như vậy, Tô Đông Pha đã thâm nhập sâu sắc nhân sinh quan của Phật giáo Đại Thừa như thật tướng bất sinh bất diệt và thể hiện điều này qua tuyệt tác Tiền Xích Bích Phú.

Như vậy, nhân sinh quan của Phật giáo không phải bi quan, hay lạc quan, mà là đạt quanBi quan là nhìn đời qua cặp kính đen, thấy cái gì cũng tiêu cực, tăm tối. Lạc quan là nhìn đời qua cặp kính hồng, tự mình tô màu cho cuộc sống, để khi đối diện thực tế lại không đủ năng lực để đối phó trước bao nghịch cảnh khó khăn. Giáo dục Phật giáo trước hết giúp hành giả giác ngộ đời vô thường, tức nhìn đời từ góc độ biến đổi, để biết thức tỉnh buông bỏ lợi danh, tình chấp. Muốn được như vậy, không những chỉ có “vô thường quan,” tức nhân sinh quan về vô thường, mà còn cần phải có “vô thường quán,” tức công phu quán chiếu sâu sắc về vô thường để dứt trừ thói quen tình chấp. Sau đó, hành giả phải quán chiếu sâu sắc hơn để nhận ra pháp tính bất sinh bất diệt nơi vô thường sinh diệt, vượt qua kiến chấp thường đoạn nhị nguyên, và nhìn đời với tri kiến “như thị,” tức nhìn vạn pháp đúng như nó là (yathabutham-see the world as it really is). Cái nhìn này được gọi là đạt quan.

Lễ Vía Quán Âm, Cầu Nguyện Xây Hồ Tịnh Tâm tháng 11, 2018. (Tu Viện Thiện Tường)

III. Đạt Quan: Cái Nhìn Như Thị

Thuở xưa có một vị tăng đọc Kinh Pháp Hoa, đến câu:

Các pháp từ xưa nay,
Tướng thường tự vắng lặng
(Chư pháp tùng bản lai,
thường tự tịch diệt tướng).

Ông khởi nghi ngờ, tại sao các pháp rõ ràng vô thường sinh diệt mà Phật lại bảo là “thường tự vắng lặng”? Ôm mối nghi này như một công án tham cứu, vào một buổi sáng mùa xuân, khi đang ngồi ngắm hoa trước tịnh thất, chợt nghe chim hót trên nhành dương, ông liền ngộ ra chân thật nghĩa mà ý Phật muốn nói, liền thêm hai câu vào hai câu kinh trên để làm nên bài kệ bốn câu:

Các pháp từ xưa nay
Tướng thường tự vắng lặng
Xuân đến trăm hoa nở
Hoàng oanh hót trên cành!
(Chư pháp tùng bản lai
Thường tự tịch diệt tướng
Xuân đáo bách hoa khai
Hoàng oanh đề liễu thượng.
(Cảnh Đức Truyền Đăng Lục)

Thì ra, vị tăng đã một bước nhảy vượt khái niệm nhị nguyên: có không, sinh diệt, động tĩnh, thường đoạn, để nhận ra pháp nhĩ như thị. Sao gọi là “Các pháp thường tự vắng lặng”? Tự vắng lặng chính là tự tính không (Śūnyatā) của các pháp. Các pháp duyên khởi nên tánh không. Cho nên, nói các pháp không, không phải là không có, mà là không thật có vì không có tự tính. Lại nữa, vì các pháp không có tự tính nên các pháp mới có thể duyên khởi hình thành. Ví dụ, nếu trẻ em có tự tính của trẻ em thì trẻ em mãi mãi là trẻ em mà không thể trở thành người lớn! Cho nên, nói khác đi, các pháp duyên khởi chính là tánh không và tánh không chính là duyên khởi. Nói khác đi, sắc tức là không và không tức là sắc, sắc không vô ngại. Đây chính là thật tướng của các pháp. Vì vậy, các pháp vẫn thường tịch diệt (tánh không) dù xuân về chim hót hoa cười hay thu sang lá vàng rơi rụng (duyên khởi). Như vậy, bất sinh bất diệt ngay nơi sinh diệt, sinh tử và niết-bàn vốn không hai, bởi vì các pháp thường tự tịch diệt. Đây chính là cốt tủy của Phật Pháp Đại Thừa. Trong Triệu Luận, Tăng Triệu cũng có bài kệ nói lên ý này:

Gió thổi bay núi mà thường tịnh
Nước sông đổ gấp mà không trôi
Bụi trần lăng xăng mà chẳng động
Mây qua bầu trời mà chẳng đi!

Đây cũng là ý Tô Đông Pha nói: Dòng sông tuy trôi qua mãi như thế mà chưa từng đi, ánh trăng tuy tròn khuyết như vậy mà rốt cuộc không có thêm bớt.

Để chứng ngộ được thật tướng bất sinh bất diệt này, trong bài kệ Lục Như của Kinh Kim Cương Bát-nhã, đức Phật dạy hành giả phải quán chiếu:

Tất cả pháp hữu vi
Như mộng, huyễn, bọt, bóng
Như sương sớm, điện chớp 
Nên quán chiếu như vậy. 
(Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng, huyễn, bào, ảnh
Như lộ, diệc như điện
Ưng tác như thị quán).

Có thấy được các pháp hữu vi không thật, như mộng huyễn bào ảnh…, hành giả mới có thể vượt qua nhận thức giả tướng thường nghiệm, và chứng ngộ thật tướng bất sinh bất diệt này.

Dựa vào ý Kinh Kim Cương trên, bút giả đã viết bài kệ tọa thiền buổi sáng sử dụng tại Tu Viện Thiện Tường:

Canh năm thức tỉnh tọa thiền
Tinh thần đề khởi, trang nghiêm tu trì.
Quán sâu các pháp hữu vi
Như mộng, như huyễn, khác gì sương mai
Bóng trăng, bọt nước không sai
Lại như điện chớp chợt bay ngang trời!
Tánh không quán chiếu không ngơi
Kim Cương Phật nhãn nhìn đời như như!
Đại chúng xin hãy thiền tư
Một phen thể nghiệm chân như niết-bàn!

“Kim Cương Phật nhãn nhìn đời như như” là cái nhìn đạt quan của Phật giáo, tức nhìn đời đúng như nó là (see things as they really are). Thật tướng bát-nhã này là kết quả của quá trình quán chiếu bát-nhã: “Tánh không quán chiếu không ngơi.” Nhìn đời được như vậy, hành giả mới thực sự an lạc hạnh phúc, ung dung tự tại trong cõi đời vô thường, khổ không này.

Tuệ Trung Thượng Sĩ cũng bảo: “Đạt quan trước sống chết chừ, nhàn vậy thôi!” (Sinh tử đạt quan hề, nhàn nhi dĩ). Cho nên, nếu nhận ra thật tướng của các pháp là tánh không, hay tướng thường tịch diệt, thì mình và vật không khác, đều cùng trong thể tánh bất sinh bất diệt, dòng sinh mệnh vô lượng thọ, vô lượng quang, thì cần chi phải bỏ mình theo vật, hâm mộ trường sinh bất tử của phi tiên? Đây cũng chính là ý của Tô Đông Pha trong đoạn văn trên.

IV. Đạt Quan Là Giàu Vui

Lại nữa, người đạt quan không chỉ thực sự an vui mà còn vô cùng giàu có. Trước hết, họ giàu có vì biết đủ. Biết đủ tức là biết nhận ra những gì mình đang có, biết trân quý và khéo hưởng dụng nó. Ví dụ, hơi thở là sự sống. Nếu thở ra mà không thở vào chúng ta sẽ sang đời khác! Vậy có ai nhận ra mình đang thở một cách thoải mái không? Đây là một niềm hạnh phúc mà chúng ta đang hưởng thụ từng phút giây trong cuộc sống hằng ngày. Hơi thở quan trọng vậy mà nhiều khi mình không ý thức được niềm hạnh phúc này. Thử nghĩ xem, khi chúng ta nghẹt mũi hay bị lên cơn hen suyễn, sự khó thở sẽ gây ra khổ sở như thế nào? Đây là lúc bình thời, còn trước giây phút lâm chung lại càng cho thấy sự trọng yếu của hơi thở. Khi cái chết đến bên, hơi thở yếu ớt và đứt đoạn. Máy trợ thở và đủ mọi dụng cụ y khoa hỗ trợ người hấp hối, thực ra cũng chỉ vì để duy trì một hơi thở này mà thôi!

Vì vậy, biết đủ không phải là tiêu cực, an phận, không chịu cầu tiến như nhiều người thường lầm nhận. Thực ra, người biết đủ là người có trí tuệ và bản lĩnh. Trí tuệ là khả năng thấy và biết trân quý những gì mình đang có, còn bản lĩnh là khả năng nhận diện và sống hạnh phúc với của báu trong ta. Có biết quý trọng và hưởng dụng những gì mình đang có, mới có đủ trí tuệ và năng lực để truy cầu những cái lớn lao và có ý nghĩa hơn. Còn buông hình bắt bóng, không trân quý những gì đang có, chỉ truy cầu những điều xa vời, đó là người tham lam, thiếu trí tuệ.

Cho nên, đức Phật dạy: “Nếu muốn thoát khổ não nên quán xét biết đủ. Biết đủ là an vui và giàu có bậc nhất. Người biết đủ tuy nằm trên đất cũng an vui, người mà không biết đủ dù ở nơi thiên đường, cũng không thấy vừa ý. Người mà không biết đủ tuy giàu nhưng lại nghèo, người biết đủ tuy nghèo lại vô cùng giàu có. Người mà không biết đủ bị năm dục kéo lôi, người biết đủ thấy vậy, cảm thấy thực đáng thương.” (Kinh Di Giáo-Sakya Minh-Quang dịch)

Lại nữa, Người đạt quan còn là người khám phá ra kho báu vô tận của trời đất, lấy không hết, dùng không cùng. Cho nên, dưới con mắt thế gian nhìn, dường như họ rất nghèo, nhưng thực ra họ là người rất giàu có hạnh phúc.

Trong bài Tiền Xích Bích Phú trên, Tô Đông Pha nói: “Lại nữa, trong cõi trời đất vạn vật đều có chủ. Nếu không phải là cái mình có, thì ta không được lấy dù chỉ là mảy may. Còn như, gió mát ở trên sông, trăng sáng nơi lưng núi, tai chạm đến thành tiếng, mắt bắt gặp thành sắc, nếu lấy đó thì không ai ngăn cấm, nếu dùng đó sẽ không bao giờ hết. Cho nên, trời đất chính là kho vô tận. Đây là cái mà tôi cùng với bạn thỏa thích lấy dùng.”

Trộm cắp của người là một điều xấu mà cũng là một trong năm giới cấm của Phật giáo. Nhưng kho báu trời đất bao la, là của chung của muôn loại, sao ta không biết lấy dùng? Ánh nắng ban mai, gió mát trưa hè, ánh trăng đêm thu, hoa nở, chim hót mùa xuân… bao nhiêu cái đẹp và niềm vui xung quanh mà mấy ai biết tận hưởng? Đây là điều mà bút giả bảo:

Đất trời kho báu của chung
Bấy lâu sao mãi bần cùng uổng oan?
Ngày xuân hoa đẹp khắp non
Đêm thu gió mát trăng tròn riêng ai?
Thở vào, hương thoảng đào mai
Thở ra, ngắm ánh trăng lay bên cầu
Đây nguồn hạnh phúc nhiệm mầu
Giàu vui nào phải tìm cầu đâu xa!

Nhưng cần nhớ, kho báu này là của chung của muôn loại, phải là người trí tuệ mới biết cách lấy dùng như vậy. Điều này hoàn toàn khác với lòng tham lam lạm dụng thiên nhiên, phá hoại môi trường, chỉ muốn lấy “của chung của muôn loại” làm của riêng cho mình và gia đình mình. Đây là phạm tội trộm cắp của chung, ngược đãi thiên nhiên, lạm dụng môi trường sống vì tham lam vật chất và ích kỷ bản thân. Ngày nay, nhiều nơi trên thế giới, nhất là ở Việt Nam, nhiều người hay tập đoàn vì lòng tham đã và đang phạm tội này. Kết cuộc, theo luật nhân quả, con người đã trở lại hại mình, hại người, và con cháu sau này do trí tuệ bị che lấp bởi lòng tham vô độ.

Ví dụ, nạn phá rừng gây lũ, khói công nghiệp gây ô nhiễm không khí, chất thải nhà máy gây ô nhiễm nguồn nước, sự rò rĩ chất phóng xạ và rác hạt nhân là những vấn nạn xã hội mà chưa có phương pháp giải quyết thỏa đáng. Ngày càng có nhiều cơn lũ quét gây mất mát của cải và cái chết thương tâm cho cư dân ở những nơi đầu nguồn do nạn khai thác rừng bừa bãi. Những bệnh tật hiểm nghèo như ung thư ngày càng nhiều do con người đã hít thở không khí khói bụi, sử dụng nguồn nước dơ bẩn, ăn rau cải có thuốc trừ sâu, dùng cá thịt nhiễm độc vì nước thải nhà máy và thức ăn tăng trọng v.v.. Đây là điều hoàn toàn trái với thái độ đạt quan của Phật giáo.

V. Đạo Phong của Người Xưa

Như vậy, người sống đạt quan là người biết cống hiến cuộc sống của mình cho việc tìm cầu chân lý và đem lại hạnh phúc chân thật cho nhân sinh. Vì mục đích này, họ đã từ bỏ vinh hoa phú quý, sống đời thiểu dục tri túc để dành năng lượng và thời gian cho sự nghiệp giác ngộ, giải thoát. Cho nên, trong Kinh Tám Điều Giác Ngộ đức Phật dạy:

Bậc Bồ-tát vô cầu biết đủ
Vui phận nghèo quy cũ tu hành
Trau giồi tuệ nghiệp lợi sanh
Vung gươm trí tuệ, dứt mành vô minh!
(Sakya Minh-Quang dịch)

Thiền sư Huyền Giác cũng bảo:

Điệu xưa, phong thái tự thanh cao
Mặt gầy, xương cứng chẳng ai chào

Thân nghèo: Con Phật manh áo vá

Lòng giàu: Đạo sáng tợ trăng sao!
(Chứng Đạo Ca-Sakya Minh-Quang dịch)

Xét ra, trong lịch sử Phật Giáo, những vị Cao tăng Thạc đức đều là những người có Đạo phong, Đạo hạnh và Đạo nghiệp như vậy.

Hòa Thượng Thích Thiện Tường (1917-1984) sáng lập Tổ Đình Giác Nguyên, Sài Gòn 1947.

Khi bút giả còn nhỏ, mỗi buổi sáng thức dậy công phu khuya, đều được nghe Hòa Thượng ân sư Thích Thiện Tường (1917-1984), người khai sáng Tổ Đình Giác Nguyên Sài Gòn, thỉnh đại hồng chung và ngâm kệ cảnh tỉnh đại chúng. Trong đó có bài:

Cũng vì mang lấy chữ nghèo
Chữ nghèo đằng cuối có vần eo
Vần eo thúc đẩy mau thành Đạo
Thành Đạo vì nghèo ít kẻ theo!
(HT. Thích Thiện Tường)

Bài kệ này một phần nói lên nếp sống thanh đạm, nghiêm trì tịnh giới và cần lao phụng sự đại chúng của Ngài. Được cúng dường tiền bạc, vải vóc bao nhiêu, Hòa Thượng đều chia lại cho đại chúng, còn mình chỉ ba y một bát, áo rách vá vai, suốt ngày cuốc đất trồng rau. Cuộc sống tu viện Phật giáo sau 1975 dù biết bao khó khăn vất vả, cả đời sống vật chất lẫn tinh thần, Hòa Thượng vẫn rắn rỏi lập trường, ung dung tự tại, như cội tùng già vững chãi giữa tuyết sương, để che chỡ và nuôi dưỡng những mầm non Phật Pháp như bút giả và huynh đệ.

Một bậc Cao tăng Thạc đức khác của Việt Nam là Hòa Thượng Thích Tuệ Đăng (1873-1953), dịch giả Kinh Vu Lan và Kinh Báo Hiếu ở Việt Nam. Ngài chẳng những có công đức lớn dịch kinh, còn là một vị Đạo phong và Đạo hạnh khả kính. Ngài từng có hai câu đối ghi trước hang đá ở Bà Rịa, nơi Ngài ẩn tu:

Tá thạch vi tường, thục thức lão tăng cùng đáo để
Dĩ phong tác phiến, thùy tri đại đạo lạc vô cương!

Nghĩa:

Mượn đá làm tường, ai biết lão tăng nghèo hết mức?
Lấy gió làm quạt, đâu ngờ Đạo lớn vui vô cùng!
 (Sakya Minh-Quang dịch)

Lại nữa, Thiền sư Lương Khoan良寬 (1758~1831)người Nhật Bản là một người sống rất đạm bạc, hòa quang đồng trần cùng dân chúng trong đời thường. Ngài có bài thơ nói lên Đạo phong và Đạo hạnh của mình:

Trong túi vài cân gạo
Bên lò bó củi khô
Ai hỏi dấu mê ngộ
Lợi danh bụi sạch chưa?
Đêm mưa trong am cỏ
Duỗi hai chân ngủ khò! 
(Thiền sư Lương Khoan-Sakya Minh-Quang dịch)

Ý Ngài bảo: Nếu có ai hỏi làm việc mê ngộ, làm sao để khai ngộ, kiến tánh. Xin thưa, hãy tự hỏi mình đã quét sạch bụi trần danh lợi trong đời sống hằng ngày chưa? Nếu miệng chỉ bàn chuyện chánh niệm tỉnh giác, vãng sinh Tịnh Độ, tham thiền kiến tánh v.v., nhưng danh lợi chẳng buông thì tất cả chỉ là hý luận!

Tu Viện Thiện Tường ở Champaign, tiểu bang Illinois. (Hình của Tu Viện)

VI. Thay Lời Kết

Sau đây, xin mượn một giai thoại trong cuộc đời của Thiền sư Lương Khoan để thay cho lời kết luận. Một hôm, có một tên ăn trộm đến viếng am cỏ của Ngài. Lục mãi nhưng chẳng thấy gì, ngài thức dậy, thấy vậy mới cởi chiếc áo khoác bên ngoài đưa cho nó. Tên ăn trộm nhận áo định đi. Ngài bảo: Sao không cám ơn? Nó cám ơn rồi bỏ đi. Ngài quên bẵng việc này. Ba hôm sau trời trở lạnh, giữa đêm giật mình thức dậy. Cảm thấy lạnh, Ngài mới nhớ lại chuyện ăn trộm hôm trước. Ngài thầm thương cho tên trộm, tự nói: “Không biết hắn có đủ ấm không?” Nhìn ra cửa sổ sáng trăng, Ngài lại bảo: “Ước chi ta có thể tặng cho hắn ánh trăng sáng này!”

Bút giả bình: Tưởng rằng Lương Khoan rất nghèo, ai ngờ lại giàu vô cùng, có một kho báu vô tận, mặc tình tiêu dao! Chẳng những vậy, Ngài còn sẵn lòng chia sẻ cho người. Nhưng ai là người chịu tin nhận đây? Tên trộm gặp thiền sư mà chỉ có được một chiếc áo khoác, thực đáng tiếc thay! Đúng là cùng tử phụ Cha!

Vậy nên,

Trăng trong, gió mát, hoa tươi…
Một kho vô tận xin người lấy cho!

(Viết tại Tu Viện Thiện Tường, ngày 11 tháng 12, 2018)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2021(Xem: 4997)
Nhà thiền có danh từ Tọa Xuân Phong để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp. Danh từ đó, tạm dịch là “Ngồi Giữa Gió Xuân” Mùa Xuân chẳng phải là mùa tiêu biểu cho những gì hạnh phúc nhất trong bốn mùa ư? Hạ vàng nắng cháy, vui chơi hối hả như đàn ve sầu ca hát suốt mùa để cuối mùa kiệt lực! Thu êm ả hơn, nhưng nhìn mây xám giăng ngang, lá vàng lả tả, tâm- động nào mà không bùi ngùi tưởng tới kiếp nhân sinh?
07/02/2021(Xem: 5228)
Chú mục đồng chậm rãi bước xuống sông. Bên cạnh chú, con trâu lớn nhất đàn ngoan ngoãn xuống theo. Đôi mắt hiền lành của nó nhìn chú như mỉm cười, tin tưởng và thuần phục. Những con trâu bé hơn lại nhìn bước đi vững chãi, an lạc của con trâu đầu đàn mà nối nhau, cùng thong thả qua sông. Đây là khúc sông cạn mà chú đã dọ dẫm kỹ lắm. Đáy sông lại không có những đá nhọn lởm chởm có thể làm chân trâu bị thương. Bên kia sông, qua khu rừng có những cội bồ đề râm mát là tới đồng cỏ rộng. Mùa này, sau những cơn mưa, cỏ non vươn lên xanh mướt, đàn trâu gồm bẩy con mà chú có bổn phận chăm sóc tha hồ ăn uống no nê sau những giờ cực nhọc cầy bừa ngoài đồng lúa.
07/02/2021(Xem: 8012)
Khi những cơn bảo và áp thấp nhiệt đới hung hãn nhất vừa tạm qua đi, khí trời phương Nam cũng trở buồn se lạnh. Nhiều người cho đó là hoàn lưu của những cơn bão miền Trung mà tất cả con dân “bầu bí chung dàn” vẫn còn đang hướng về chia sẻ, nhưng ít người nhận ra rằng đó chính là cái se lạnh của mùa đông phương Nam, báo hiệu mùa xuân sắp đến nơi ngưỡng cửa của bộn bề lo toan hằng năm.
06/02/2021(Xem: 6152)
Mười bức “Tranh Chăn Trâu” trong phần này là của họa sư Nhật Bản Gyokusei Jikihara Sensei, vẽ vào năm 1982 nhân một cuộc thăm viếng thiền viện Zen Mountain Monastery ở Mount Tremper, New York, (Hoa Kỳ). Họa sư vẽ để tặng thiền viện. Các bài thơ tụng thời nguyên gốc của thiền sư Quách Am viết vào thế kỷ thứ 12. Thơ tụng được chuyển dịch ở đây bởi Kazuaki Tanahashi và John Daido Loori, sau đó được nhuận sắc bởi Daido Loori để mong tạo lập ra những hình ảnh và ẩn dụ cho thêm giống với phong cảnh núi sông ở quanh thiền viện Zen Mountain Monastery. Thiền sư Daido Loori là người lãnh đạo tinh thần và là tu viện trưởng của thiền viện này.
04/02/2021(Xem: 5633)
Hôm qua mình có giới thiệu cuốn sách Buddhism in America (Phật Giáo Mỹ) của Richard Hughes Seager. Có bạn hỏi thêm muốn tìm hiểu Phật Giáo Mỹ nên nhờ mình giới thiệu vài cuốn. Nghĩ rằng đây là câu hỏi hay nên mình xin viết giới thiệu 7 cuốn sách để nhiều người lợi lạc. 1. Cuốn The Faces of Buddhism in America (Diện Mạo của Phật Giáo ở Mỹ) do Charles Prebish 2. Buddhist Faith in America (Đức Tin Phật Giáo ở Mỹ) tác giả Michael Burgan 3. Buddhism in America của Richard Huges Seager (1999, tái bản 2012) 4. Buddhism in America của Scott Mitchell 5. Altered Traits: Science Reveals How Meditation Changes Your Mind, Brain, and Body, 2017 6. A Mindful Nation: How a Simple Practice Can Help Us Reduce Stress, Improve Performance, and Recapture the American Spirit, 2012, 7: American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
01/02/2021(Xem: 4272)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 9194)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 5737)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
01/02/2021(Xem: 7048)
Phần này bàn về các danh từ gọi dụng cụ gắp cơm và đưa vào miệng (ăn cơm) như đũa hay trợ, khoái, giáp cùng các dạng âm cổ của chúng. Các chữ viết tắt khác là Nguyễn Cung Thông (NCT), Hán Việt (HV), Việt Nam (VN), TQ (Trung Quốc), ĐNA (Đông Nam Á), HT (hài thanh), TVGT (Thuyết Văn Giải Tự/khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), TV (Tập Vận/1037/1067), TNAV (Trung Nguyên Âm Vận/1324), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), TViB (Tự Vị Bổ/1666), TTTH (Tứ Thanh Thiên Hải), KH (Khang Hi/1716), VBL (tự điển Việt Bồ La/1651) ĐNQATV (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị/1895).
29/01/2021(Xem: 5744)
Ở đời không phải ai cũng chấp nhận sự chân thành của bạn. Những người quanh ta luôn công nhận việc tốt mà ta đã và đang làm, trở thành đương nhiên như thế… và đến một ngày kia bạn quá mệt mỏi liệu có ai bên cạnh bạn và cảm thông với bạn không? Vì trong suy nghĩ của họ bạn là người tự nguyện cho đi..., trong hoàn cảnh như thế liệu bạn có tiếp tục cho đi nữa hay không? Tất nhiên là có, chúng ta hãy tiếp tục sống tốt nhưng phải là người tốt thông minh. Hãy tin rằng không có nỗ lực nào là uổng phí, hãy có quan điểm và lý tưởng của chính mình, luật nhân quả luôn đền bù cho bạn xứng đáng. Nhà Phật dạy có Luân Hồi-Ngiệp Báo. Không ai phủ nhận rằng quan tâm chăm sóc người khác là tốt, nhường nhịn người khác đều là tốt, tuy nhiên quan tâm quá, họ sẽ làm khó ta vạn lần, nhiệt tình quá họ sẽ đâm ra nghi ngờ, thậm chí khiến bạn bị tổn thương …
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]