Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Mong cầu Giác ngộ - Thăm Chùa Khánh Anh Paris

19/07/201920:02(Xem: 7344)
Mong cầu Giác ngộ - Thăm Chùa Khánh Anh Paris

Mong cầu Giác ngộ -

 Thăm Chùa Khánh Anh Paris

Margit Hillmann

Ký giả Đài Phát thành Đức

Deutschlandfunk tường thuật

Đỗ Kim Thêm dịch

 

Phat-Giao-Tai-Phap-000

 

Pháp là quốc gia theo thế tục và đa tôn giáo. Ở Pháp có nhiều Phật tử sống hơn bất kỳ quốc gia nào khác trong khối Liên Âu. Các ngôi chùa do các tín đồ tự tài trợ. Chuyến đi thăm chư tăng ni của chùa Khánh Anh ở Evry, Paris.

Sáng thứ bảy, ngay sau sáu giờ: Kim Ngon Ong, nguời tóc bạc, mặc áo  tràng dài màu nâu, mang dù trong tay, chạy lóc cóc qua cơn mưa đang trút xuống để mở khóa cổng chùa

Ông là Chủ tịch Hội Bảo trợ Phật giáo của Chùa Khánh Anh ở Evry, người đã mời tôi đến dự buổi tụng kinh công phu sáng. Ông đi trước, lên ngọn đồi. Với một địa hình rộng 4.000 mét vuông, ngôi chùa nằm trên một ngọn đồi bên quốc lộ. Được bao quanh bởi những cây xanh tươi, chùa là một tòa nhà hình hộp nhiều màu vàng cam với nhiều mái lớn nhỏ, hình cong theo kiểu châu Á làm bằng gạch sơn. Ở bên trái và phải, các tòa nhà xây dựng trên hai bảo tháp: tháp hẹp thờ Phật có ban công bao quanh.

Cầu kinh nhật tụng lúc sáu giờ sáng

Chúng tôi bước vào chánh điện, lên phòng cầu nguyện. Buổi lể cầu nguyện đã bắt đầu, như mọi buổi sáng lúc sáu giờ. Chùa được xây dựng theo truyền thống Việt Nam, Ông Chủ tịch giải thích. Hành trì và hoằng pháp ở đây là theo tông phái Đại thừa, dịch là "cổ xe lớn" hay "con đường lớn". Chùa là trụ sở của "Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam châu Âu", chỉ trong khu vực Paris có khoảng 40.000 Phật tử.

Ông Chủ tịch nói: “Một nửa số người đến đây với chúng tôi là người Việt Nam, những người châu Âu khác thường coi Phật giáo là một triết lý. Họ đến đây để thảo luận".

 Phat-Giao-Tai-Phap-001

 

Phòng cầu nguyện là chánh điện rộng với nhiều cửa sổ. Trên bàn thờ lớn, được trang trí đầy màu sắc, tượng Đức Phật to và thiếp vàng ngự trong tư thế hoa sen. Ngay hàng đầu có bảy tăng ni ngồi trên những chiếc gối nhỏ, áo cà sa và đầu trọc. Một số tín đồ áo khoác màu nâu cầu nguyện ở hàng thứ hai. Ông Chủ tịch kín đáo đứng sau lưng họ, chắp tay cúi đầu làm lể. Cuối cùng, ông dẫn tôi đến một phòng cạnh bên, nơi có đặt hai bàn thờ nhỏ.

Phẩm vật cho người quá cố

"Bàn thờ cho người quá vãng," Ông nói và chỉ vào những bài vị lớn đặt trên bàn thờ đầu tiên giữa mâm trái cây đủ loại và hoa huệ toả hương thơm. Vài chục bức ảnh đen trắng và màu được đặt trên bàn thờ. Trong các chân dung của người quá cố, có các khuôn mặt châu Á và Âu, phụ nữ và nam giới, cũng có hình ảnh của một quân nhân Pháp trong quân phục.

Ông Chủ tịch giải thích: "Mọi người đều được phép mang ảnh của thân nhân quá cố trưng ở đây, nhưng các Phật tử trong đạo tràng của chúng tôi có cả người Công giáo Pháp chẳng hạn. Thường là có những người gặp rắc rối trong việc chấp nhận cái chết của người thân. Họ treo những bức ảnh vì họ tin rằng người đó sống ở đây. Họ đến thăm người quá cố thường xuyên, họ cầu nguyện, dâng cúng trái cây, bánh ngọt, sôcôla và những thứ tương tự, phẩm vật lể cho người chết."

Trên bàn thờ thứ hai được trang trí phong phú hơn, nhưng chỉ có một bức chân dung duy nhất. Đó là của một tu sĩ Phật giáo cao tuổi với chiếc mũ đội đầu tương tự như của các giám mục Công giáo: đó là Hoà thượng Thích Minh Tâm, một tăng sĩ Phật giáo và người sáng lập chùa này ở Evry.

Ông Chủ tịch gọi vị ấy là Hoà thượng. Ông là nhà lãnh đạo tinh thần đến từ Việt Nam, người đã sống lưu vong ở Pháp từ giữa những năm 1970, đã qua đời vào năm 2013, trước khi khánh thành chùa và tu viện riêng cho Hoà thượng.

Chùa đã hơn 20 năm xây dựng, tốn kém đến 22 triệu euro, được quyên góp bởi các tín đồ ở Pháp, Châu Âu và hải ngoại. Ông Chủ tịch nói, ông cũng là nguời lo chuyện tài chính của chùa.

Bình an nội tâm

Bên phòng bên cạnh, chư tăng ni kết thúc buổi cầu kinh công phu buổi sáng kéo dài một giờ. Trong số các vị này có Thượng toạ Thích Nhuận Hương, ông Chủ tịch giới thiệu. Bộ cà sa của nhà sư được phân biệt vì có màu khác, màu vàng nhưng sáng hơn. Nhà sư Phật giáo có khuôn mặt trẻ trung và nụ cười dịu dàng, Sư đến từ Việt Nam trong vài năm trước, hiện sống và giảng dạy trong chùa ở Evry. Nước Pháp có phải là một địa điểm tốt cho các Phật tử, cho một tu viện Phật giáo không?

 Phat-Giao-Tai-Phap-002

 

Ông đánh giá cao nước Pháp. Ông Chủ tịch dịch câu trả lời của Thượng  toạ, vì ông chỉ nói tiếng Việt. Không giống như ở quê hương và nhiều quốc gia khác trên thế giới, người dân ở đây có thể tự do thảo luận, bày tỏ ý kiến và các tín đồ tự do tu tập theo tôn giáo của họ.

Thượng Toạ giải thích như thế nào về sự quan tâm của nhiều người châu Âu đối với Phật giáo, Thượng Toạ trải nghiệm nó như thế nào?

Thượng Toạ suy nghĩ, tay lần tràng hạt chuổi cầu nguyện và nói: "Họ lớn lên trong truyền thống Kitô giáo ở châu Âu. Nhưng họ cởi mở về tinh thần và tò mò, họ muốn học hỏi. Khi đến với chúng tôi, họ đặt nhiều câu hỏi và muốn đào sâu kiến thức về Phật giáo và giáo lý của Đức Phật. Thuyết phục người châu Âu quy y không phải là mục tiêu của chùa. Nhiều người châu Âu quan tâm đến Phật giáo như một thế giới quan hay triết học. Họ thường rất quan tâm đến giáo lý của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Và họ cũng đến với chúng tôi trong chùa, bởi vì họ đang tìm kiếm sự bình an nội tâm hơn trong cuộc sống hàng ngày của họ."

Các thuyền nhân tạo bước khởi đầu

Ông Chủ tịch bổ sung thêm với niềm tự hào, Đức Đạt Lai Lạt Ma Dalai đã đến chùa năm 2008 ở Evry để làm lể cầu nguyện cho bức tượng Phật nơi chánh điện. Ngoài ra, các cuộc họp và hội thảo tôn giáo lớn được tổ chức ở đây mỗi năm, mỗi lần có hơn một trăm học giả và tu sĩ Phật giáo từ Châu Âu và khắp nơi trên thế giới đến.

Ông Chủ tịch nói, tuy nhiên, Chùa Khánh Anh được thành lập dành cho nhiều Phật tử Việt Nam đã đến Pháp với tư cách là thuyền nhân trong những năm 1970 và 80. Nhờ chùa, họ có thể tu tập theo truyền thống Đại thừa đã phổ biến ở Việt Nam trên quê hương mới của họ, họ có thể truyền bá các truyền thống tôn giáo cho con cháu mình, sáng nay, chỉ có Phật tử người Việt đến chùa.

Giống như Ông Thanh từ Paris, người dọn bàn ăn sáng ở tầng dưới trong phòng ăn. Là người khoảng trên bốn mươi tuổi, ông làm việc trong ngành công nghiệp đóng họp tại Pháp, ông đến Evry mỗi cuối tuần để cầu nguyện và làm công qủa.

Tôi ở lại cả ngày để giúp việc trong chùa, ở châu Âu, không có nhiều tăng ni sống trong chùa, vì vậy, chúng tôi là các tín đồ, chúng tôi giúp họ làm việc: giữ trật tự cho chùa, trong sân hay nhà bếp và chuẩn bị các nghi lễ cầu nguyện với các tăng ni vào ngày chúa nhật.

Trong nhà bếp kề bên, nữ giới chuẩn bị bữa sáng, những Phật tử và một ni sư đã che đầu cạo trọc bằng một chiếc mũ đan nhỏ. Sư cô đổ dầu vào một cái chảo lớn.

Sư cô 64 tuổi nói là sinh vào đầu thập niên 1950 tại Việt Nam, con gái của một người Pháp và Việt. Năm ba mươi tuổi cô đến Pháp, lập gia đình và có bốn con. Sau lại ly dị chồng và khi các con đã trương thành, cô quyết định đi tu.

Trở lại chùa, vì khi còn nhỏ, tôi là một Phật tử và thường ở chùa. Khi tôi còn nhỏ, trong một buổi lễ, mẹ tôi đã hứa giáo dục tôi theo đạo Phật."

Sư cô vẫn còn trong thời gian tu thử trong hai năm. Một giai đoạn giữa tu sĩ và xuất gia, chỉ được do yêu cầu của các nữ tu. Khi nào qua thời kỳ này, các nữ tu mới được phép xuất gia hoàn toàn. Sau đó, giống như tất cả các nữ tu Phật giáo, sư cô sẽ khấn hứa tuân thủ các giới luật bổ sung chỉ áp dụng cho phụ nữ trong tu viện, nhưng là nhiều hơn một phần ba giới luật so với chư tăng.

Sư cô nói có ba ni cô sống ở chùa Khánh Anh, và họ có thể được nhận ra bởi vì đã xuống tóc. Như để chứng minh rằng cô thuộc về các ni sư này, sư cô gỡ chiếc mũ nhỏ ra khỏi đầu.

Tôi yêu mọi người

Cứ mười bốn ngày họ lại cạo trọc đầu. Một hành động tượng trưng của sự từ bỏ và dâng hiến cho tôn giáo. Cuộc sống trong tu viện với sự từ bỏ thế tục, tìm kiếm sự giác ngộ như một mục đích của cuộc sống, đối với sư cô, không phải là nạn nhân. Đó là một nhu cầu sâu thẩm, bất kể tuổi tác, giới tính hay nguồn gốc.

Ni sư kể rằngi: "Phật giáo là khao khát tìm đến giác ngộ. Và tôi sống ở đây với những người khác như trong một gia đình. Tôi yêu tất cả mọi người. Bởi vì tôi nghĩ họ giống tôi và tôi cũng giống họ. Tất cả chúng ta sống với nhau một cách tự nhiên“

Thế hệ sau sẽ có một cái nhìn hoàn toàn khác: Con cái của những thuyền nhân Việt Nam, sinh ra và lớn lên ở Pháp, có mối quan hệ cách biệt với Phật giáo, sư cô và cũng là người mẹ xác định như vậy, ngay cà đối với con của mình đã trưởng thành. Có khi các con đến chùa làm công qủa hoặc đến tham dự Lễ hội Vesak, ngày kỷ niệm ngày đản sinh của Đức Phật.

"Các con tôi vẫn có thể cầu nguyện bằng tiếng Việt, nhưng không hiểu. Ở Châu Âu, cũng hiếm khi Phật tử trẻ đi tu. Họ không có ý thức, ít sẵn sàng từ bỏ. Họ khác với giới trẻ ở Việt Nam."

Trong phòng ăn, các chư tăng ni cùng với các Phật tử khác ngồi vào bàn ăn sáng. Sau lời cầu nguyện ngắn, tất cả dùng bửa. Thượng toạ và một vị sư trẻ từ Việt Nam được phục vụ món súp châu Á; tất cả những người khác dùng với bánh mì, camembert, mứt, cà phê và sữa. Ông Chủ tịch cười. Không, một bữa sáng tiêu biểu của người Việt không phải như thế. Nhưng hành trì và hoằng pháp Phật giáo truyền thống của quê hương không loại trừ việc họ đã đến đất nước mới của họ.

 

Nguyên tác: Buddhismus in Frankreich - Die Sehnsucht nach Erleuchtung

https://www.deutschlandfunk.de/buddhismus-in-frankreich-die-sehnsucht-nach-erleuchtung.886.de.html?dram:article_id=452834

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/02/2021(Xem: 5433)
Hình ảnh con trâu tượng trưng cho tâm ý của chúng sinh. Mỗi người ai cũng đều có một con “trâu tâm" của riêng mình. Và cứ như thế pháp chăn trâu được nhiều người sử dụng, vừa tự mình chăn vừa dạy kẻ khác chăn. Vào cuối thế kỷ mười ba, thời nhà Trần, trong THIỀN MÔN VIÊT NAM xuất hiện một nhân vật kiệt xuất. Đó là Tuệ Trung Thượng Sĩ tên thật là Trần Tung, ông là một thiền sư đắc đạo. Ông là người hướng dẫn vua Trần Nhân Tông vào cửa Thiền và có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng của vị vua sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử này.
08/02/2021(Xem: 4443)
Sau khi đạt được Giác ngộ, Đức Phật nêu lên Bốn Sự Thật và sự thật thứ nhất là "Khổ đau". Khổ đau ẩn chứa trong thân xác, bàng bạc trong tâm thức của mỗi cá thể con người và bùng ra cùng khắp trong thế giới: bịnh tật, hận thù, ích kỷ, lường gạt, đại dịch, bom đạn, chiến tranh... Sự thật đó, khổ đau mang tính cách hiện sinh đó, thuộc bản chất của sự sống, gắn liền với sự vận hành của thế giới. Sự thật về khổ đau không phải là một "phán lệnh" hay một cái "đế", cũng không mang tính cách "kỳ diệu" gì cả, mà chỉ là một sự thật trần trụi, phản ảnh một khía cạnh vận hành của hiện thực.
07/02/2021(Xem: 5315)
Nhà thiền có danh từ Tọa Xuân Phong để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp. Danh từ đó, tạm dịch là “Ngồi Giữa Gió Xuân” Mùa Xuân chẳng phải là mùa tiêu biểu cho những gì hạnh phúc nhất trong bốn mùa ư? Hạ vàng nắng cháy, vui chơi hối hả như đàn ve sầu ca hát suốt mùa để cuối mùa kiệt lực! Thu êm ả hơn, nhưng nhìn mây xám giăng ngang, lá vàng lả tả, tâm- động nào mà không bùi ngùi tưởng tới kiếp nhân sinh?
07/02/2021(Xem: 5528)
Chú mục đồng chậm rãi bước xuống sông. Bên cạnh chú, con trâu lớn nhất đàn ngoan ngoãn xuống theo. Đôi mắt hiền lành của nó nhìn chú như mỉm cười, tin tưởng và thuần phục. Những con trâu bé hơn lại nhìn bước đi vững chãi, an lạc của con trâu đầu đàn mà nối nhau, cùng thong thả qua sông. Đây là khúc sông cạn mà chú đã dọ dẫm kỹ lắm. Đáy sông lại không có những đá nhọn lởm chởm có thể làm chân trâu bị thương. Bên kia sông, qua khu rừng có những cội bồ đề râm mát là tới đồng cỏ rộng. Mùa này, sau những cơn mưa, cỏ non vươn lên xanh mướt, đàn trâu gồm bẩy con mà chú có bổn phận chăm sóc tha hồ ăn uống no nê sau những giờ cực nhọc cầy bừa ngoài đồng lúa.
07/02/2021(Xem: 8655)
Khi những cơn bảo và áp thấp nhiệt đới hung hãn nhất vừa tạm qua đi, khí trời phương Nam cũng trở buồn se lạnh. Nhiều người cho đó là hoàn lưu của những cơn bão miền Trung mà tất cả con dân “bầu bí chung dàn” vẫn còn đang hướng về chia sẻ, nhưng ít người nhận ra rằng đó chính là cái se lạnh của mùa đông phương Nam, báo hiệu mùa xuân sắp đến nơi ngưỡng cửa của bộn bề lo toan hằng năm.
06/02/2021(Xem: 6538)
Mười bức “Tranh Chăn Trâu” trong phần này là của họa sư Nhật Bản Gyokusei Jikihara Sensei, vẽ vào năm 1982 nhân một cuộc thăm viếng thiền viện Zen Mountain Monastery ở Mount Tremper, New York, (Hoa Kỳ). Họa sư vẽ để tặng thiền viện. Các bài thơ tụng thời nguyên gốc của thiền sư Quách Am viết vào thế kỷ thứ 12. Thơ tụng được chuyển dịch ở đây bởi Kazuaki Tanahashi và John Daido Loori, sau đó được nhuận sắc bởi Daido Loori để mong tạo lập ra những hình ảnh và ẩn dụ cho thêm giống với phong cảnh núi sông ở quanh thiền viện Zen Mountain Monastery. Thiền sư Daido Loori là người lãnh đạo tinh thần và là tu viện trưởng của thiền viện này.
04/02/2021(Xem: 6262)
Hôm qua mình có giới thiệu cuốn sách Buddhism in America (Phật Giáo Mỹ) của Richard Hughes Seager. Có bạn hỏi thêm muốn tìm hiểu Phật Giáo Mỹ nên nhờ mình giới thiệu vài cuốn. Nghĩ rằng đây là câu hỏi hay nên mình xin viết giới thiệu 7 cuốn sách để nhiều người lợi lạc. 1. Cuốn The Faces of Buddhism in America (Diện Mạo của Phật Giáo ở Mỹ) do Charles Prebish 2. Buddhist Faith in America (Đức Tin Phật Giáo ở Mỹ) tác giả Michael Burgan 3. Buddhism in America của Richard Huges Seager (1999, tái bản 2012) 4. Buddhism in America của Scott Mitchell 5. Altered Traits: Science Reveals How Meditation Changes Your Mind, Brain, and Body, 2017 6. A Mindful Nation: How a Simple Practice Can Help Us Reduce Stress, Improve Performance, and Recapture the American Spirit, 2012, 7: American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
01/02/2021(Xem: 4562)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 9817)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 6269)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]