Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Giọt Nước Mắt Sa Di

13/06/201921:01(Xem: 6022)
Giọt Nước Mắt Sa Di


chusadi_painting
GIỌT NƯỚC MẮT SA DI

 

Quý bạn hiền,

 

Cái đề của bài viết “Giọt Nước Mắt Sa Di”, thoạt nghe, cứ tưởng như tiếng vọng ai hoài của một cuốn phim truyện đầy tình cảm éo le như Dạ Cổ Hoài Lang hay Hồi Chuông Thiên Mụ… vào một thuở xa xưa!

 

Nhưng không! Rằng thưa, kẻ viết những dòng này xin được kể một câu chuyện “rất thời thượng” mới xẩy ra hôm qua ngay trên thành phố Sacramento, thủ phủ tiểu bang California này. Dòng thời gian vẫn còn vương nước mắt mang dư vị “thiếu nữ vu quy nhật”, sưởi ấm niềm vui chưa tan và nụ cười chưa tắt của một tu sĩ Phật giáo hàng Sa di “thất thập cổ lai hy”!

 

Khi nói đến hình ảnh Sa Di, người theo đạo Phật đã quen với những hình ảnh sân chùa đều liên tưởng đến một chú tiểu hay chú điệu tóc trái đào chỏm trước chỏm sau, mặc áo nâu sòng, còn nhảy chân sáo; xách gàu tưới cây hay lượm hoa rơi, quét lá ở sân chùa. Nhắc lại một chút về danh từ nhà Phật dành cho các đối tượng xuất gia tùy theo tuổi tác: Từ 7 đến 70 tuổi, không bị dị tật đều được xuất gia. Có 32 dị tật gọi là Ác Già Nạn thì không được xuất gia (ví dụ như tay chân què quặt “tứ chi bất cụ, bất thành Sa Môn” – Chân tay không đủ không thành sa môn… chẳng hạn). Sa Di là cửa đầu tiên của người xuất gia. Từ 7 đến 12 tuổi là Khu ô Sa di hay Sa di Đuổi quạ. Từ 13 đến 19 tuổi là Ứng pháp Sa di. 20-70 tuổi gọi là Danh tự Sa di. Hiền hữu Trần Duy Phô xuất gia gần niên kỷ thất thập nên có thể gọi là Danh tự Sa di Thông Đạo mà không lo bị quở! 

 
sadithongdao_photo

Giọt nước mắt Sa di Thông Đạo

 

Trong rừng áo vàng, áo đỏ thắm, áo đỏ thậm, áo nâu sòng, áo màu lam… đâu đó dưới bóng Phật đài, có “lão Sa di Thông Đạo” là anh Trần Duy Phô - người đã qua một chặng đường dài với hành trình Phật giáo: Tuổi trẻ Phật tử, thanh niên sinh viên Phật tử, quân nhân Phật tử, người tha hương Phật tử và kẻ xuất gia làm nhà sư Phật giáo. Nhưng duyên (thiện duyên) và nghiệp (thuận nghiệp) trùng trùng của anh vẫn còn tương tác nên nếp sống tu hành thanh tịnh và sinh hoạt đời thường vẫn lai vãng theo anh.

 

Trên con đường tìm về dòng thánh chánh pháp là xuất gia đi tu, anh đã được toại nguyện khi quỹ thời gian cuối đời đã mỏng. Nhưng giữa nẻo trầm luân của biến hiện đời thường, sa di Thông Đạo cũng vẫn còn thấp thoáng với chuyện gia đình và xã hội. Người xuất gia có thể bỏ qua không dính mắc với chuyện thị phi thiên hạ; nhưng trường hợp đó là chuyện thiết thân của gia đình và dòng tộc thì ít nhiều cũng phải cưu mang thôi.

 

Sáng nay, mùa Tốt Nghiệp tại Mỹ, ngày đầu tháng 6 năm 2019, tôi đã chứng kiến “giọt nước mắt sa di”! Và tôi cảm thấy mắt mình cũng cay cay theo một dòng đồng cảm nào đó lặng lẽ dâng trào khi Sa di Thông Đạo phát biểu: “… chúng con xuất thân từ gia đình nghèo khổ trong khung cảnh đồng chua nước mặn quê mùa nhưng ngày hôm nay nhờ ân đức tổ tiên, hồng ân Tam Bảo và năng lượng lành địa linh nhân kiệt của hai nước Việt Nam và Hoa Kỳ, gia đình con, bản thân con và các cháu mới có được ngày hôm nay…”

 

 sadithongdao_family

Niềm vui gia đình ngày Tốt nghiệp

 

Sáng nay chú Sa di Thông Đạo đã cảm động phát khóc khi thưa thỉnh với các vị tăng ni và quan khách trong buổi gia đình cúng dường trai tăng để mừng cháu con gái út Trần Thị Khánh Hiền, Pháp danh Quảng Diệu Thảo tốt nghiệp Y khoa Bác sĩ. Khánh Hiền cũng là đoàn sinh và huynh trưởng Gia Đình Phật Tử Kim Quang tại Sacramento. Cháu tốt nghiệp Tiến Sĩ Y Khoa (MD: Medical Doctor) tại đại học Wisconsin (University of Wisconsin School of Medicine and Public Health) và được học bổng toàn phần thụ huấn và thực tập chuyên môn ngành Sản Phụ Khoa (Obstetrics and Gynecology) thêm 4 năm nữa tại đại học SUNY Upstate Med University ở New York: Tổng cộng 24 năm đèn sách! (12 năm phổ thông, 8 năm đại học, 4 năm chuyên khoa). Ai đã từng ở trong hệ thống giáo dục của Mỹ mới hiểu hết một sinh viên Y Khoa đi vào Chuyên khoa (Specialist) phải xuất sắc và khó đến mức nào! Ngày xưa phải mất 10 năm đèn sách (Thập niên đăng hỏa) để chuẩn bị cho trường văn, trận bút của một giấc mơ thành khóa sinh, sĩ tử thi thố tài năng chữ nghĩa với đời để được công hầu khanh tướng. Ngày nay, thời gian gần gấp ba để thành nhân chuẩn bị vào đời.

 sadithongdao_daughter

Trần Thị Khánh Hiền trong ngày Tốt nghiệp MD

  

Cả một chặng đường dài thử thách “trường đồ tri mã lực” cho Sa di Thông Đạo. Thiếu thời, cũng vươn lên từ quê nghèo để được làm học trò, sinh viên. Trưởng thành, vào lính (sĩ quan Thủ Đức khóa 3/72), vào tù Cải tạo sau 1975, định cư Hoa Kỳ theo diện HO. Tình thần hiếu đạo và hiếu học là điểm sáng cho cả gia đình anh – mà bây giờ tôi phải gọi bằng “chú” – vươn tới.

 

Qua nhiều năm dài trên đất Mỹ, anh đã theo học ngành Xã Hội và tốt nghiệp Cử nhân Xã Hội (BSW), Thạc sĩ Xã Hội (MSW: Master of Social Works). Tôi cũng có được niềm vui đã từng là ông giáo Field Instructor cho sinh viên bạn mình Trần Duy Phô trong cả hai chương trình Cử nhân và Thạc sĩ tại đại học California State University. Tinh thần hiếu học của gia đình thề hiện với chị Hạnh, bà xã anh Phô là một giáo sư trung học đệ nhị cấp trước 1975; cháu Quang, con trai anh Phô đang theo học chương trình thạc sĩ.

 

Với dòng đời thăng trầm như vận nước nổi trôi, nhưng sự nhất quán đối với Đạo Phật là một dòng đời trôi chảy miên mật đối với Anh. Khi còn ở quê nhà, anh Duy Phô là thành viên năng nỗ trong chương trình từ thiện của Bác Siêu - Một hoạt động từ thiện khiêm tốn của các Phật tử trong khung cảnh nhà nghèo của Huế nhưng có lịch sử trong sáng và lâu dài nổi tiếng được mọi người tán thán và kính nể. Qua Mỹ, sau những tháng ngày dài đi học, đi làm và năng nỗ tham gia công tác từ thiện (sáng lập viên và trưởng Hội Từ Bi Quán Thế Âm) cho đến tuổi về hưu, Anh Phô mới thế phát xuất gia thành Sa di Thông Đạo. Và, từ giờ phút nầy trở đi tôi sẽ gọi Anh bằng Chú nhé.

 

Trước đây, tôi đã có viết một bài về trường hợp xuất gia của anh Trần Duy Phô. Mời bạn đọc:

 

http://www.trankiemdoan.net/butluan/tongiao-phatgiao/tamsuvoibanhiensapxuatgiaditu.html

 

Mùa Tốt Nghiệp tại Mỹ năm 2019, với nỗi cảm xúc của bậc làm cha mẹ, người nuôi duỡng, bảo trợ, thân nhân không phân biệt tuổi tác, địa vị xã hội hay hoàn cảnh xuất thân đã góp phần đào tạo cho một con em học hành thành tài đến ngày tốt nghiệp. Trong nguồn cảm xúc chung, tôi đã mời bạn trở về cảm nhận nỗi niềm xúc động và hân hoan của một người bán thế xuất gia Phật giáo có con tốt nghiệp như trường hợp chú Thông Đạo.

 

Cứ mỗi lần nghe “điệu nhạc tốt nghiệp” quá quen thân và đầy cảm xúc trong hầu hết lễ tốt nghiệp tại các trường phương Tây mà nhất là Mỹ và Anh, tôi lại có cả một dòng hoài niệm và cảm xúc mênh mông cho chính bản thân mình, con cháu trong gia đình và bằng hữu.

 

Gần nửa thế kỷ, bài hát mình được nghe đầu tiên mà tần số rung động vẫn còn nguyên vẹn như thuở ban đầu, không có gì thay đổi trong lòng mình: Đó là giai điệu “ĐẤT HY VỌNG VÀ VINH QUANG” (LAND OF HOPE AND GLORY) mà hầu hết các trường học ở Mỹ và gần khắp thế giới dùng mở đầu các buổi lễ TỐT NGHIỆP từ cấp Tiểu học đến Đại Học.

 

"Land of Hope and Glory" là một bài ca yêu nước của Anh do A.C. Benson viết lời và Edward Elgar phổ nhạc vào năm 1902.

 

Nguyên tác lời của Benson:

 

LAND OF HOPE AND GLORY

 

Land of hope and glory, mother of the free,

How shall we extol thee, who are born of thee?

Wider still and wider shall thy bounds be set;

God, who made thee mighty, make thee mightier yet…

 

(tạm phóng dịch) 

 

ĐẤT HY VỌNG VÀ VINH QUANG

 

Mẹ của tự do, đất hy vọng và vinh quang,

Sao nói hết lời vinh danh nguồn cội ?

Vang vọng mãi mênh mông trời đại hải;

Thiêng Liêng ơi Người mãi mãi huy hoàng…

 

Và giai điệu của Edward Elgar. Mời nghe 3 cách trình tấu và diễn nhạc như sau:

 

https://youtu.be/HY-7l0YObPw

 

https://youtu.be/yGQgdE50QA4

 

https://youtu.be/OqPflP_hXyY

 

Ở quê nhà có phượng hồng báo tin mùa Tốt Nghiệp. Nơi quê người có nỗi xúc động dâng trào biểu hiện dưới muôn vàn hình tướng. Bao nhiêu giọt nước mắt mừng vui như giọt nước mắt Sa di. Chúc mừng và chia vui với Sa di Thông Đạo cùng gia đình. Rất khen ngợi cháu Thái Hiền và chung vui với GĐPT Kim Quang.

 

 

Sacramento, mùa Tốt nghiệp 2019

                                                                                                                                         Trần Kiêm Đoàn 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/05/2021(Xem: 4720)
Lời tựa Những lời Phật dạy phần lớn mang tính phương tiện. Nếu ta chấp chặt từng chữ, từng lời sẽ khó hiểu được hết ý nghĩa thâm sâu bên trong. Chúng ta - những người học Phật ngày nay - rất cần nhận biết đâu là phương tiện, đâu là chân lý trong những lời Phật dạy để không rơi vào cực đoan và thiên kiến. Ngoài ra, người học Phật cũng cần chú tâm vào thực hành để tự mình thực chứng, để tự tìm ra cách đi phù hợp cho riêng mình.
26/05/2021(Xem: 5029)
Phật Đà sau khi thành Chánh Đẳng Chánh Giác nơi cội Bồ Đề, trong thời gian hai mươi mốt ngày, chỉ riêng mình thọ dụng diệu lạc giải thoát, tự riêng cảm niệm lý pháp tịch tịnh vi diệu thậm thâm khó thấy, không phải cảnh giới của tìm cầu, chỉ có bậc trí mới chứng ngộ được; chúng sanh thì bị nhiễm trước thâm sâu ngã kiến, ái lạc phiền não nặng nề, mặc dù họ được nghe Phật Pháp, e rằng cũng không thể rõ thấu, chỉ uổng công vô ích, chi bằng im lặng tịnh trụ tốt hơn. Sau đó Đại Phạm Thiên Vương ân cần cầu thỉnh Phật thuyết pháp, Thế Tôn mới đến Lộc Dã Uyển ngoài thành Ba La Nại Tư, vì năm ông thị giả lúc trước bỏ Phật mà vào trong đây tu khổ hạnh gồm có: A Nhã Kiều Trần Như, Át Bệ, Bạt Đề, Thập Lực Ca Diếp, Ma Nam Câu Lợi, giảng pháp môn Tứ Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Năm vị sau khi nghe pháp thấu hiểu ý nghĩa các lậu đều dứt, chứng thành bậc A La Hán, đây là Tam Bảo đầu tiên mới thiết lập trong thế gian: Đại Thánh Phật Đà là Phật Bảo, Pháp Luân Tứ Đế là Pháp Bảo, Năm A La Hán là Tăng Bảo.
24/05/2021(Xem: 4515)
Đại thừa lấy việc chăn trâu dụ cho việc điều tâm, luyện tâm. Cái tâm đó, nguyên lai thuần hậu, nhưng đã bị đánh lạc mất, để nó chạy rông, buông lung theo sở thích không biết gì đến những hiểm nguy rình rập, cho nên phải tìm lại, và chế ngự cho thuần tính. Cái tâm vọng động xấu xa lần hồi được gạn lọc khỏi các cấu nhiễm trần gian sẽ sáng dần lên và từ chỗ vô minh sẽ đạt tới cảnh giới vòng tròn viên giác. Đó là tượng trưng cho phép tu “tiệm”. Theo phép tu tiệm thì phải tốn rất nhiều công phu mới tiến đến được từng nấc thang giác ngộ. Nhờ công phu, cái vọng tâm lần hồi gạn lọc được trần cấu mà sáng lần lên, cũng như nhờ được chăn dắt mà con trâu hoang đàng lâu ngày trở nên thuần thục dần dần và lớp da đen dơ dáy trắng lần ra.
24/05/2021(Xem: 3747)
Cơn đại dịch quét qua địa cầu gây điêu đứng và làm xáo trộn cả đời sống của nhân loại. Nó tước đi những sinh mệnh, làm đảo lộn nếp sống của từng cá nhân, gia đình, xã hội, quốc gia và quốc tế. Nó không phân biệt, nể trọng hay nhường nhịn ai; không kỳ thị trí thức hay bình dân, giàu hay nghèo, già hay trẻ, nam hay nữ, khỏe mạnh hay yếu đuối. Nó ly cách từng cá nhân, chia lìa những gia đình, khoanh vùng từng xã hội; và như lưỡi hái khổng lồ của tử thần, nó phạt ngang, san bằng tất cả những gì nằm trên lối đi thần tốc của nó.
24/05/2021(Xem: 7565)
Ca khúc phổ nhạc “Đóa Hoa Dâng Đời... Của Ns Phật Giáo Hằng Vang từ bài thơ có tựa là “ Đóa Hoa Ngàn Đời... Của Huyền Lan đăng tuần báo Giác Ngộ đặc biệt Phật Đản số 110 ra ngày 09/05/1998. Sau đó vào năm 2003. Cư Sỹ Tống Hồ Cầm – Phó Tổng Biên Tập Báo Giác Ngộ - tức nhà thơ Tống Anh Nghị - Chủ Nhiệm CLB thơ ca Báo Giác Ngộ, hợp tuyển thơ báo Giác Ngộ nhiều tác giả có tên gọi “Sắc Hương Hoa Bút... Được tuyển chọn vào tập thơ nhiều tác giả nầy...
24/05/2021(Xem: 4747)
Ni sư Thích Nữ Giới Hương có lẽ là vị trụ trì viết nhiều nhất ở hải ngoại. Đó là theo chỗ tôi biết, trong cương vị một nhà báo nhiều thập niên có liên hệ tới nhà chùa và công việc xuất bản. Viết là một nỗ lực gian nan, vì phải đọc nhiều, suy nghĩ nhiều, phân tích nhiều, cân nhắc kỹ rồi mới đưa chữ lên mặt giấy được. Đặc biệt, Ni sư Giới Hương cũng là vị trụ trì viết bằng tiếng Anh nhiều nhất. Tôi vẫn thường thắc mắc, làm thế nào Ni sư có đủ thời giờ để gánh vác Phật sự được đa dạng như thế. Nghĩ như thế, vì tự thấy bản thân mình, nghiệm ra, không có đủ sức đọc và viết nhiều như Ni sư.
18/05/2021(Xem: 6178)
Phật sử ghi lại rằng, vào canh Ba đêm thành đạo, đức Phật đã tìm ra câu giải đáp làm sao thoát khỏi cảnh “Sinh, Già, Bệnh, Chết”, tức thoát khỏi vòng “luân hồi sinh tử”. Câu trả lời là phải đoạn diệt tất cả “lậu hoặc”. Lậu hoặc chính là những dính mắc phiền não, xấu xa, ác độc, tham, sân, si… khiến tâm con người bị ô nhiễm từ đời này sang đời khác, và đời này con người ta vẫn tiếp tục huân tập lậu hoặc, tạo thành nghiệp. “Lậu hoặc” hay “nghiệp” là nguyên tố nhận chìm con người trong luân hồi sanh tử, là nguyên nhân của khổ đau. Muốn chấm dứt khổ đau, chấm dứt luân hồi sanh tử thì phải đoạn diệt tất cả các lậu hoặc, không có con đường nào khác!
18/05/2021(Xem: 5332)
Năm 1959 một sự đe dọa của Tàu Cộng chống lại Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa đến sự phản kháng ở Lhasa. Hy vọng tránh được một cuộc tắm máu, ngài đã đi lưu vong và hơn 150,000 Tây Tạng đã đi theo ngài. Bất hạnh thay, hành động này đã không ngăn được sự tắm máu. Một số báo cáo nói rằng khoảng một triệu người Tây Tạng đã chết trong năm đó như một kết quả trực tiếp của việc Tàu Cộng xâm chiếm Tây Tạng.
16/05/2021(Xem: 12167)
Nhận xét rằng, Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh gấp của lịch sử nhân loại. Đại dịch Covid-19 đã khép kín mỗi cá nhân trong một không gian chật hẹp, cách ly xã hội, cô lập cá nhân, cách ly cả những người thân yêu. Nó đã tạo ra những khủng hoảng tâm lý trầm trọng trong nhiều thành phần xã hội. Một số đông bị quẫn bức, không thể tự kềm chế, bỗng chốc trở thành con người bạo lực, gieo kinh hoàng cho xã hội. Một số khác, có lẽ là số ít, mà phần lớn trong đó là thanh thiếu niên, khởi đầu cũng chất đầy oán hận trong lòng, nhưng rồi trước ngưỡng sinh tử sự đại, tự mình phấn đấu tự kềm chế, cuối cùng đã khám phá chính mình, trong trình độ nào đó, với những giá trị nhân sinh chỉ có thể tìm thấy trong những cơn tư duy thầm lặng. Giá trị nhân sinh không thể tìm thấy bằng những cao trào kích động của tuổi trẻ. Thế hệ ấy sẽ làm thay đổi hướng đi của lịch sử Đông Tây qua hai nghìn năm kỷ nguyên văn minh Cơ-đốc, khi mà tín đồ có thể liên hệ trực tiếp với đấng Chí Tôn của mình qua mạng truyền
15/05/2021(Xem: 5364)
Phần này bàn về niên hiệu Long Thái và chúa Khánh ở Cao Bằng vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các danh từ như vậy được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "Chúa Thao cổ truyện" và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]