Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Mười Lý Do Nên Tu Từ Bi Quán

16/05/201919:23(Xem: 6051)
Mười Lý Do Nên Tu Từ Bi Quán


Phat thich ca 2b


MƯỜI LÝ DO
NÊN TU TẬP TỪ BI QUÁN



Từ Bi là căn bản của đạo, căn bản của tất cả pháp lành, như đã được Đức Phật thuyết trong kinh Đại Bát Niết Bàn: “Nếu có người hỏi gì là căn bổn của tất cả pháp lành? Nên đáp: Chính là tâm từ… Này thiện nam tử (Ca Diếp Bồ Tát)! Tâm từ chính là Phật tánh của chúng sanh, Phật tánh như vậy từ lâu bị phiền não che đậy nên làm cho chúng sanh chẳng đặng nhìn thấy. Phật tánh chính là tâm từ, tâm từ chính là Như Lai (Đại Bát Niết Bàn, Tập I, Phẩm Phạm Hạnh (1999, PL2543),  tr.520, Hòa Thượng Thích Trí Tịnh dịch, Nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh). Vì thế, người con Phật không thể không thực hành hạnh từ bi.

Chia sẻ tình thương bằng tịnh tài và tịnh vật cho những người khốn khó là một việc làm nhân văn, ý nghĩa, là biểu hiện của tâm từ bi của hành giả. Tuy nhiên quả thật thiếu sót khi hành giả không thực hành từ bi quán. Từ quán là phương pháp đối trị sân giận, phát triển lòng từ cho bản thân, và cho vô lượng hữu tình, không phân biệt thân sơ, giàu nghèo, địa vị, tôn giáo, quốc gia, và hết thảy muôn loài khắp cả địa cầu này và cùng khắp phương xứ. Trong khi đó bi quán là phương thuốc đối trị tưởng hại, phát triển sự hiểu biết sâu sắc và thương xót trước những nỗi khổ của hữu tình, là duyên để hành giả phát tâm bồ đề, vì tâm bi có công năng bạt khổ hữu tình. Cho nên, bài kết tập này trình bày mười lý do tại sao người con Phật nên thực hành tứ bi quán để lợi lạc cho bản thân, cho tha nhân, hết thảy hữu tình, cho xã hội và cho môi trường tự nhiên.

  1. 1.      Công đức vô lượng, không thể nghĩ bàn

Cả hai nguồn kinh tạng – Nikàya (Pali) tạng và Hán tạng đều tán thán công đức vô lượng, bất khả tư nghị của từ bi quán. Đức Phật ví tất cả các công đức như xây chùa, đúc tượng, cúng dường Phật và chư Tăng, làm tất cả các thiện nghiệp trên thế gian không bằng một phần mười sáu công đức của người tu tập lòng từ. Đoạn trích dẫn sau đây trong Tăng Chi Bộ, Phẩm Tiếng Rống Con Sư Tử (X) (20): Velàma cho thấy việc bố thí hào phóng của đại triệu phú Bà-la-môn Velàma khi bố thí 84000 bát vàng chứa đầy bạc, 84000 bát bằng bạc chứa đầy vàng, 84000 bát đồng chứa đầy châu báu, 84000 con voi được trang trí cờ phướng bằng vàng với những đường viền bằng vàng, 84000 cổ xe tốt vv, việc xây tịnh xá, cúng dường tăng đoàn với đức Phật làm thượng thủ vv, tất cả không bằng người tu từ quán dầu chỉ một khoảnh khắc vắt sữa bò:

Thuở xưa, này Gia chủ, có một vị Bà-la-môn tên là Velàma. Vị ấy bố thí rộng lớn như sau: Vị ấy bố thí 84.000 bát bằng vàng đựng đầy bạc. Vị ấy bố thí 84.000 bát bằng bạc đựng đầy vàng. Vị ấy bố thí 84.000 bát bằng đồng đựng đầy châu báu. Vị ấy bố thí 84.000 con voi với đồ trang sức bằng vàng, với các ngọn cờ bằng vàng, bao trùm với những lưới bằng chỉ vàng và 84.000 cỗ xe, được trải với da sư tử, được trải với da cọp, được trải với da báo, được trải với mềm màu vàng, với những trang sức bằng vàng, với các ngọn cờ bằng vàng, bao trùm với những lưới bằng chỉ vàng. Vị ấy bố thí 84.000 con bò sữa, cột bằng những sợi dây gai mịn với những thùng sữa bằng bạc. Vị ấy bố thí 84.000 thiếu nữ, trang sức với những bông tai bằng châu báu. Vị ấy bố thí 84.000 giường nằm trải nệm bằng len thêu bông, nệm bằng da con sơn dương gọi là kadali, tấm khảm với lầu che phía trên, có đầu gối chân màu đỏ hai phía. Vị ấy bố thí 84.000 thước vải, bằng vài gai mịn màng nhất, bằng vải lụa mịn màng nhất, bằng vải len mịn màng nhất, bằng vải bông mịn màng nhất. Và ai có thể nói về các đồ ăn, đồ uống, loại cứng, loại mềm, các loại đồ ăn nếm và các loại nước đường. “Chúng tôi nghĩ chúng chảy như dòng sông”.

Có thể, này Gia chủ, Ông nghĩ: “Có thể Bà-la-môn Velàma là một người nào khác, vị đã bố thí một cách rộng lớn như vậy”. Này Gia chủ, chớ có nghĩ như vậy. Chính lúc ấy, Ta là Bà-la-môn Velàma, chính Ta đã bố thí rộng lớn ấy. Nhưng này Gia chủ, khi bố thí ấy được cho, không có một ai xứng đáng để nhận bố thí. Không có một ai làm cho thanh tịnh bố thí ấy. Này Gia chủ, dầu Bà-la-môn Velàma bố thí có rộng lớn, nếu có ai bố thí cho một người chánh kiến, bố thí này lớn hơn quả lớn kia. Này Gia chủ, dầu Bà-la-môn Velàma bố thí có rộng lớn và có ai bố thí cho 100 người chánh kiến, và có ai bố thí cho một vị Nhất lai, bố thí này quả lớn hơn bố thí kia. Này Gia chủ, dầu cho Bà-la-môn Velàma bố thí rộng lớn, và có ai bố thí cho 100 người Nhất lai, và có ai bố thí cho một vị Bất lai, bố thí này quả lớn hơn bố thí kia. Này Gia chủ, dầu Bà-la-môn Velàma bố thí có rộng lớn, và có ai bố thí cho 100 vị Bất lai, và có ai bố thí cho một vị A-la-hán, bố thí này quả lớn hơn bố thí kia. Này Gia chủ, dầu Bà-la-môn Velàma bố thí có rộng lớn hơn, và có ai bố thí cho một vị A-la-hán, và có ai bố thí cho một vị Độc Giác Phật, bố thí này quả lớn hơn bố thí kia. Này Gia chủ, dầu cho Bà-la-môn Velàma bố thí có rộng lớn và có người bố thí cho 100 vị Độc Giác Phật, có ai bố thí cho Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, bố thí này quả lớn hơn bố thí kia. Này Gia chủ, dầu cho Bà-la-môn Velàma bố thí có rộng lớn, và có ai bố thí cho chúng Tỷ-kheo với đức Phật là vị thượng thủ, và có ai xây dựng một tinh xá cho chúng Tăng trong bốn phương... và có ai với tâm tịnh tín qui y Phật, Pháp và Tăng, và có ai với tâm tịnh tín chấp nhận học pháp, từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ không đắm say rượu men, rượu nấu... Và có ai với tâm tịnh tín, chấp nhận học pháp... từ bỏ không đắm say rượu men, rượu nấu, và ai tu tập từ tâm giải thoát, cho đến trong khi khoảnh khắc vắt sữa bò, bố thí này quả lớn hơn bố thí kia. Này Gia chủ, dầu cho Bà-la-môn Velàma bố thí có rộng lớn, có ai bố thí một vị đầy đủ chánh kiến.. và có ai bố thí cho 100 vị đầy đủ chánh kiến.. và có ai bố thí một vị Bất lai... và có ai bố thí trăm vị Bất lai, và có ai bố thí một vị A-la-hán... và có ai bố thí trăm vị A-la-hán... và có ai bố thí một vị Độc giác Phật, và có ai bố thí trăm vị Độc giác Phật, và có ai bố thí Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác... và có ai bố thí chúng Tỷ-kheo với đức Phật là vị cầm đầu, và có ai cho xây dựng một tinh xá cho chúng Tăng trong bốn phương... và có ai với tâm tịnh tín qui y Phật, Pháp và chúng Tăng... và có ai tâm tịnh tín chấp nhận học pháp, từ bỏ sát sanh... từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu... và có ai dầu chỉ trong một khoảnh khắc vắt sữa bò, tu tập từ tâm, và có ai dầu chỉ trong một khoảnh khắc búng ngón tay, tu tập tưởng vô thường, bố thí này quả lớn hơn bố thí kia.

(Tăng Chi Bộ, Phẩm Tiếng Rống Con Sư Tử (X) (20): Velàma Kinh AN 9.20 (Kinh Velàma): https://suttacentral.net/an9.20/vi/minh_chau)

Trong Kinh Như Thị Ngữ (Tiểu Bộ), Đức phật ví công đức của người tu từ quán như ánh sáng trăng rằm vượt hơn tất cả ánh sáng của các vì sao gọp lại, được ví cho tất cả công đức mà ta đã thực hiện ở trên đời. (Tiểu Bộ Kinh, Kinh Như Thị Ngữ,  (XXVII) (Ek III, 7) (It. 19).

Một lần nữa trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, Phẩm Phạm Hạnh (Hán Tạng) đã cho thấy công đức không thể nghĩ bàn của từ quán qua những câu kệ sau:

Giả sử tiên ngũ thông

Đông khắp mặt đất này

Có vua chúa tự tại

Dâng cấp đủ đồ dùng

Voi ngựa các vật dụng

Thí cho tiên được phước

Chẳng bằng tu lòng từ

Trong một phần mười sáu

(Đại Bát Niết Bàn Kinh, Phẩm Phạm Hạnh, tr. 519)

Rõ ràng những lời dạy của Đức Thích Tôn về từ bi quán cho thấy Đức Phật nhấn mạnh việc tu tâm (nội tâm không sân, không hại) hơn là việc hướng tâm trên các đối tượng bên ngoài (bố thí, cúng dường, xây chùa, đúc tượng vv) để tích lũy công đức mà nội tâm không có tu tập. Nói như vậy không có nghĩa là Đức Phật phủ nhận công đức to lớn của việc bố thí, cúng dường. Việc bố thí, cúng dường làm việc từ thiện trong thế gian sẽ được kiên định, sâu rộng, viên mãn và lan tỏa hơn nhiều nhờ vào lòng từ bi được trưởng dưỡng qua thiền quán từ bi. Nói một cách khác, một khi nội tâm tràn đầy tình thương yêu, thì việc làm từ thiện, hay bố thí, cúng dường, hộ trì Tam Bảo sẽ dễ dàng thành tựu và vững bền.    

  1. 2.      Điều phục sân giận

Sân giận khiến bạn bất an, nguyên nhân của khổ đau, của hận thù và sợ hãi. Sân giận là nghiệp bất thiện, mà trong nhiều bài kinh ví sân giận như ngọn lửa chỉ trong giây lát thiêu đốt cả rừng công đức. Sân giận trước hết khiến mình khổ đau và khuôn mặt trở nên xấu xí, ôm hận, người đời xa lánh, ngủ không ngon giấc, chết trong si ám và sau khi chết tái sanh vào đọa xứ. Đó là bảy điều bất lợi của tâm sân giận ( ( Tăng Chi BK III, Ch. 7 (X) 60, tr 409 - 413)). Để chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau do sân giận gây ra, từ quán là liệu pháp trị liệu hữu hiệu. Trong kinh Trung Bộ, Đức Phật nói từ tâm giải thoát có công năng điều phục sân giận, mang lại sự an lạc nội tâm cho hành giả (Mười Một Cửa Giài Thoát, Tâm Tịnh cẩn tập).

  1. 3.      Hóa giải hận thù

Gia đình bất hòa, vợ chống bất hạnh, khắp đó đây xung đột, chiến tranh, khủng bố thường xuyên xảy ra do hận thù, kết quả của sân giận, khiến cho cuộc sống của con người trở nên ngột ngạt. Để hóa giải hận thù, và chung sống an lành không gì hơn là trưởng dưỡng lòng tư bi qua việc thực hành từ bi quán trên tinh thần hiểu và thương, hiểu và thông cảm.

Chuyện 282 trong tập chuyện tiền thân của Đức Phật trong Tiểu Bộ Kinh kể lại chuyện một ông vua nhờ từ bi quán mà hàng phục vị vua cướp nước, cứu cả hai quốc gia lâm vào cảnh chiến tranh, chết chóc như đoạn trích sau:

Ông vua kia đã đến đây, phá hoại xứ sở để mong chiếm lấy Ba-na-lại. Xin cho chúng thần đi bắt ông ta!

- Ta không muốn giữ vương quốc bằng cách giết hại - vua bảo - Đừng làm gì cả.

Ông vua cướp nước kia bao vây thành phố. Các đại thần lại đến gần vua và nói:

- Tâu Đại vương, xin hãy lưu tâm. Hãy cho phép chúng thần bắt ông ta!

- Không được làm gì cả - vua phán - Hãy mở các cổng thành.

Rồi vua đoan nghiêm ngồi trên bệ, giữa các đại thần của triều đình.

Vua cướp nước vào thành, hạ các người giữ cổng rồi vào cung điện. Nơi đây, ông bắt giữ vua và các triều thần, trói xích lại rồi tống tất cả vào ngục. Vua ngồi trong ngục thương xót kẻ cướp nước kia, nỗi xót xa cùng cực trào dâng trong ngài. Do lòng thương xót kia mà ông vua nọ bỗng cảm thấy giày vò bứt rứt trong thân, cả người như bị thiêu đốt gấp hai lần lửa bỏng. Bị ray rứt xốn xang vì trọng tội, ông ta hỏi các cận thần vì sao như vậy.

Họ trả lời:

- Ngài đã bắt giam một vị vua công chính, do thế mà ngài bị như thế kia.

Ông ta liền đến xin Bồ-tát thứ lỗi, giao trả lại vương quốc

(282. Chuyện Điều Tốt Nhất (Tiền thân Seyya)

  1. 4.      Hóa giải nghiệp xấu

Vua A Xá Thế vì tội giết vua cha mà sinh bệnh và sinh tâm sợ hãi. Trong khi tâm bị giày vò bởi tội ác của mình, Vua A Xà Thế được cận thần chánh trực Kỳ Bà khuyên đến gặp Phật để xin sám hối trong đó có đoạn kinh sau đây cho thấy tu một tâm lành có thể hóa giải nghiệp ác lớn:

Tạo nhiều điều ác chẳng bằng một điều lành. Hạ thần nghe Phật nói tu một tâm lành phá trăm điều ác. Như chút kim cang có thể phá hoại núi Tu Di cũng như chút lửa có thể đốt cháy tất cả. Cũng vậy, chút ít điều lành có thể phá nghiệp ác lớn. Dẫu gọi là chút lành nhưng kỳ thật là lớn vì phá được nghiệp ác lớn.

(Đại Bát Niết Bàn Kinh, Phẩm Phạm Hạnh , tr, 629).

Tu một chút tâm lành hóa giải nghiếp ác lớn huống gì người thực hành từ bi quán mỗi ngày, mỗi giờ, trong mọi thời gian, mọi oai nghi: Khi đứng, hay khi đi, khi ngồi hay khi nằm, hãy an trú niệm này, lâu cho đến khi nào khi đang còn tỉnh thức, là nếp sống tối thượng

(ĐTKVN, Tiểu Bộ I, kinh Tập, chương 1, phẩm Rắn, phần Kinh Từ bi [trích], Nxb TP.HCM ấn hành, 1999, tr.506))

  1. 5.      Điều phục thú dữ

Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, Phẩm Phạm Hạnh, Đức Phật đã nhập từ tâm tam muội điều phục con voi say hung dữ mà Đề Bà Đạt Đa thả ra để tiêu diệt Đức Phật (tr. 519).

Thời Đức Phật còn tại thế, có một số tỷ kheo bị rắn độc cắn chết khi đang hành thiền trong những khu rừng. Nhân đó mà Thế Tôn chỉ dạy thiền rải tâm từ (từ quán) cho các loài rắn và thú dữ để phòng hộ thân, và điều phục thú dữ như trong câu chuyện tiền thân số 203 trong Tiểu Bộ Kinh như sau:

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì Bà-la-nại, Bồ tát sanh ra trong gia đình một Bà-la-môn ở nước Kàsi. Khi đến tuổi trưởng thành Bồ-tát đoạn tận các dục, xuất gia làm đạo sĩ, đạt được các Thắng trí và các Thiền chứng, rồi xây dựng am thất tại một khúc quanh của sông Hằng gần chân núi Tuyết và sống tại đấy, vui hưởng cùng thiền lạc với chúng đạo sĩ vây quanh.

Lúc bấy giờ, có nhiều loại rắn trên bờ sông Hằng làm hại các vị đạo sĩ, và phần lớn các vị ấy mệnh chung. Các vị tu khổ hạnh trình chuyện ấy với Bồ-tát. Ngài liền họp tất cả vị tu khổ hạnh lại, và nói:

- Nếu các ông tu tập từ tâm đối với bốn loại gia đình vua rắn này, các con rắn sẽ không cắn các ông, do vậy, bắt đầu từ nay, hãy tu tập từ tâm như vậy đồi với bốn loại vua rắn.

Rồi Bồ-tát đọc bài kệ đầu:

Ta khởi lên từ tâm 
Với Vi-rù-pak-kha, 
Ta khởi lên từ tâm 
Với E-rà-pa-tha, 
Ta khởi lên từ tâm 
Với Chab-byà-put-ta, 
Ta khởi lên từ tâm 
Kan-hà-go-ta-ma.

Như vậy, sau khi nêu tên bốn gia đình vua rắn, Bồ-tát nói:

- Nếu các ông có thể tu tập từ tâm đối với những loài vật này, thì các con rắn không cắn, và không bức hại các ông.

Rồi Bồ-tát đọc bài kệ thứ hai:

Với các loài không chân, 
Ta khởi lên lòng từ, 
Với các loài hai chân, 
Ta khởi lên lòng từ, 
Với các loài bốn chân, 
Ta khởi lên lòng từ, 
Nhiều chân hoặc không chân, 
Ta khởi lên lòng từ.

Như vậy, sau khi nêu rõ sự tu tập từ tâm của mình, Bồ-tát nói lên lời cầu nguyện với bài kệ:

Hỡi các loài không chân 
Chớ có làm hại Ta, 
Hỡi các loài hai chân, 
Chớ có làm hại Ta, 
Hỡi các loài bốn chân 
Chớ có làm hại Ta,
Hỡi các loài nhiều chân 
Chớ có làm hại Ta.

Rồi nêu rõ sự tu tập không hạn chế, Bồ-tát đọc thêm bài kệ này:

Tất cả loài chúng sanh, 
Tất cả loài hữu tình, 
Phàm tất cả sanh loại 
Có mặt ở trên đời, 
Mong được thấy tốt lành, 
Chớ có làm điều ác.

Như vậy, Bồ tát nói:

- Hãy tu tập từ tâm đối với tất cả mọi loài chúng sanh không có hạn chế.

Rồi Bồ-tát tán thán công đức của Ba Ngôi Báu với thính chúng:

- Vô lượng là Phật, vô lượng là Pháp, vô lượng là Tăng.

Bồ-tát nói tiếp:

- Hãy ghi nhớ công đức của Ba Ngôi Báu này.

Sau khi trình bày công đức Ba Ngôi báu là vô lượng, Bồ-tát nêu rõ các chúng sanh đều có hạn lượng, Bồ-tát nói thêm:

- Các loài bò sát, các loài rắn, các loài bò cạp, các loài một trăm chân, các loài nhện, các loài rắn mối, các loài chuột, đều có hạn lượng.

Rồi Bồ-tát lại nói:

- Vì tham dục trong nội tâm của những chúng sanh này khiến chúng có hạn lượng.

Sau khi nêu rõ như vậy, Bồ-tát nói thêm:

- Mong rằng chúng ta sẽ được bảo vệ ngày đêm đối với các chúng sanh có hạn lượng này nhờ uy lực của ba Ngôi Báu vô lượng. Vì vậy hãy nhớ ghi công đức của Ba Ngôi Báu.

Rồi Bồ-tát đọc bài kệ này để nêu rõ việc cần phải làm thêm nữa:

Nay ta được bảo vệ, 
Nay ta được che chở,
Hỡi các loài sanh vật, 
Hãy đi xa, tránh xa! 
Con đảnh lễ Thế Tôn, 
Và bảy đức Phật-đà, 
Chư Phật đã tịch diệt.

Như vậy Bồ-tát khuyên:

- Trong khi đảnh lễ, hãy ghi nhớ bảy đức Phật.

Rồi Bồ-tát trao thần chú che chở này cho các đạo sĩ.

Bắt đầu từ đấy, các đạo sĩ vâng theo lời khuyên dạy của Bồ-tát, tu tập từ tâm, ghi nhớ công đức chư Phật. Như vậy, nhờ các đạo sĩ ấy ghi nhớ các công đức chư Phật, tất cả các loài rắn đều bỏ đi. Còn Bồ-tát tu tập các Phạm trú (Bốn Vô lượng tâm) và được sanh lên Phạm thiên giới.

(Tiểu Bộ Kinh: Chuyện tiền thân số 203 Chuyện tu tập từ tâm (Tiền thân Khandha – Vatta).

  1. 6.      Không thất bại trong thiền định

Trong Kinh Tăng Chi Bộ, phẩm nói về Nhất Pháp, Phật có nói một câu: ‘‘Nếu một vị khất sĩ tu Từ quán, dầu chỉ thực tập trong một chốc lát, thời gian bằng một cái búng tay thôi, thì vị khất sĩ đó đã xứng đáng là một vị khất sĩ rồi.’’ Câu nói đó chứng tỏ rằng Từ quán rất quan trọng trong đạo Phật. Phật nói tiếp: ‘‘Thầy khất sĩ đó sẽ không thất bại trong thiền định, sẽ làm được theo lời bậc đạo sư chỉ dạy, sẽ đáp ứngđược những lời khuyến dụ của các vị đạo sư. Và vị đó ăn cơm tín thí không uổng.’’ Nếu hằng ngày vị khất sĩ hành trì Từ quán, thì còn công đức gì nhiều hơn, và lớn hơn nữa?

  1. 7.      Vô úy, khôn sợ hãi

Khi nội tâm không sân giận, tình thương tràn đầy cho hết thảy hữu tình trong tất cả pháp giới, sự hận thù không còn trong nội tâm, thì vô úy, không sợ hãi là điều tất nhiên.

Trong Tiểu Bộ Kinh có một tích chuyện kể về tiền thân của Đức Phật sinh ra trong một ngôi làng. Một ngày nọ, Bồ Tát đã thành lập một nhóm chuyên làm việc thiện như xây cầu, đào giếng, bố thí vv. Nhờ kiên tâm hành thiện mà danh tiếng của Bồ Tát được cả làng biết đến. Việc này khiến cho trưởng thôn sanh tâm ganh tỵ vu khống cả nhóm từ thiện này ăn cắp và trình lên vua. Vị Vua này bất cẩn không cần tra xét, và ra lệnh cho xử tử cả nhóm bằng cách cho những con voi giẫm đạp lên người. Bồ tát khuyên nhủ cả nhóm bình tĩnh, không nên sợ hãi mà khởi lòng từ đến các con voi. Nhờ phát khởi từ bi quán mà những con voi tránh xa, không giẫm đạp lên người, khiến cho vua phải kinh ngạc. Nhờ vậy, vua mới xét hỏi Bồ Tát và biết được sự thật. Bồ Tát và cả nhóm không những được minh oan mà còn được vua trọng thưởng (Tiểu Bộ Kinh, chuyện tiền thân của Đức Phật- Chuyện số… ).

  1. 8.      Giải thoát

Như trong Trung Bộ Kinh số 52 Bát Thành, những hành giả tu từ tâm giải thoát, bi thâm giải thoát một cách kiên cố, lạc thọ xuất hiện, và nhận biết lạc thọ này có được là do thực hành tinh tấn từ bi tâm giải thoát, là pháp hữu vi, vô thường nên chịu sự hoại diệt. Từ đây quán tánh ly tham, quán tánh đoạt đoạn diệt, quản tánh xả ly của pháp này, thì sẽ được giải thoát (Mười Một Cửa Giải Thoát, Tâm Tịnh cẩn tập).

  1. 9.      Phương tiện tùy duyên chúng sanh, hành bồ tát đạo

Trong Kinh Tăng Nhất A Hàm, Thế Tôn cũng ân cần khuyến tấn chư Tỷ kheo tu sức đại từ bicủa chư Phật vì lợi ích chúng sanh: “Chư Phật Thế Tôn thành tựu đại từ bi, lấy đại từ bi làm sức mạnhđể lợi ích rộng rãi cho chúng sanh. Thế nên, các Tỳ-kheo! Nên nhớ tu hành sức đại từ bi này. Như thế, các Tỳ-kheo, nên học điều này” (Kinh Tăng nhất A-hàm, tập II, phẩm Lực , VNCPHVN ấn hành, 1998, tr.482)

 

  1. 10.  Mười một lợi ích của từ quán

Này các tỳ-khưu, Từ tâm giải thoát được thực hành, được tu tập, được làm cho sung mãn, được tác thành cỗ xe, được tác thành căn cứ địa, được tiếp tục an trú, được tích tập, được khéo khởi sự thời được chờ đợi là mười một lợi ích. Thế nào là mười một?

(1) Ngủ an lạc, (2) thức an lạc, (3) không ác mộng, (4) được loài người ái mộ, (5) được phi nhân ái mộ, (6) chư thiên bảo hộ, (7) không bị lửa, thuốc độc, kiếm xúc chạm, (8) tâm được định mau chóng, (9) sắc mặt trong sáng, (10) mệnh chung không hôn ám; (11) nếu chưa thể nhập thượng pháp (A-la-hán quả), được sinh lên phạm thiên giới.

Này các tỳ-khưu, Từ tâm giải thoát được thực hành, được tu tập, được làm cho sung mãn, được tác thành cỗ xe, được tác thành căn cứ địa, được tiếp tục an trú, được tích tập, được khéo khởi sự thời được chờ đợi là mười một lợi ích.

(Tăng chi bộ, Chương XI Tâm Từ (AN 11.16) (Hòa thượng Thích Minh Châu dịch)

Lời Kết: Từ bi quán là pháp hành thiền thiết thực, có công năng chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau thành an lạc, hạnh phúc, giải thoát, niết bàn. Từ bi quán là phương tiện để trưởng dưỡng tâm từ bi của người con Phật, nhất là những hành giả phát bồ đề tâm lợi mình, lợi người, lợi cho xã hội và cho môi trường thiên nhiên.

Nguyện đem công đức này

Hướng về chúng sanh khắp pháp giới

Đồng sanh cõi Cực Lạc.

Tâm Tịnh cẩn tập




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/03/2022(Xem: 6978)
Trong lúc còn trụ thế, Đức Phật có 10 đệ tử rất xuất sắc. Thuở đó, Phật đã khen mỗi vị giỏi nhất về một lãnh vực, nhưng không đánh giá vị nào đứng nhất, vị nào đứng nhì, ba... trong tăng đoàn. Điều này thật dễ hiểu: đã đắc quả Chánh Đẳng Chánh Giác thì vị nào cũng giỏi cả. Giả sử có dịp ngồi bên nhau, hẳn mười vị A-la-hán này sẽ không bao giờ nhận mình là người giỏi. Thế thì có ai dám nói mình là “người giỏi hơn người”!
28/03/2022(Xem: 9040)
Truyện Tranh LỊCH SỬ PHẬT THÍCH CA là chuyện kể về đời một danh nhân, một ông hoàng vương giả, đã tự mình tìm ra pháp Bất Sanh Bất Diệt và trở thành bậc Thánh ngay giữa lòng nhân sinh cách đây trên 26 thế kỷ. Từ đó đến nay tuy cuộc sống đã có nhiều đổi thay nhưng đời sống, nhân cách và tư tưởng của Ngài vẫn là ánh sáng, niềm tin trong tâm hồn của những người yêu Chân, Thiện.
25/03/2022(Xem: 4144)
Nhân kỷ niệm Ngày đức Thế Tôn nhập Niết Bàn, với tâm niệm hộ trì Tam Bảo và hỗ trợ chư Tăng tu hành nơi xứ Phật đang trong lúc khó khăn, chúng con, chúng tôi vừa thực hiện một buổi cúng dường tịnh tài đến chư Tôn đức Tăng già, các bậc xuất sỹ thường trú chung quanh khu Thánh tích Bồ Đề Đạo Tràng, nơi đức Thế Tôn thành Đạo..
25/03/2022(Xem: 3023)
Nhân Duyên Tâm Luận Tụng Thánh Long Thọ Ấn ngữ:pratītyasamutpāda hṛdaya kārikā Tạng ngữ: rten cing 'brel par 'byung ba'i snying po tshig le'ur byas pa
25/03/2022(Xem: 2240)
Hành giả phải phát khởi các giai đoạn động lực và hành vi vì lợi lạc của tất cả các bà mẹ hữu tình, bao la như không gian, tôi phải thành tựu quả vị giác ngộ viên mãn vô song, và vì mục tiêu này mà tôi nên lắng nghe giáo pháp cao quý. Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi. Bài pháp Tứ Diệu Đế này là khuôn khổ của Phật pháp.
25/03/2022(Xem: 2927)
Hãy phát khởi động lực và hành vi đúng đắn, nghĩ rằng tôi phải tạo lợi lạc cho tất cả chúng sanh bao la như không gian, tôi phải thành tựu giác ngộ vô song và hoàn hảo. Người ta phải nghĩ rằng mục tiêu chánh của việc lắng nghe giáo pháp là để tu tập. Hơn nữa, ý nghĩa của việc tu tập là để giúp tâm thoát khỏi phiền não hay vọng tưởng, và đó là ý nghĩa của việc thực hành Pháp. Vì vậy, động lực tích cực và hành vi tích cực là điều cần thiết ở đây, bởi vì khi càng có động lực và hành vi tốt đẹp hơn, thì việc tu tập Pháp sẽ trở nên hữu hiệu hơn.
25/03/2022(Xem: 2520)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả, vì ước nguyện thành tựu quả vị hoàn hảo và giác ngộ viên mãn, vì lợi lạc của tất cả bà mẹ hữu tình, rộng lớn như không gian bao la. Hãy điều chỉnh động lực lắng nghe giáo pháp bằng tư tưởng đặc biệt này.
11/03/2022(Xem: 2909)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên? Câu trả lời theo sử Phật Giáo: đó là bài Kinh vô ngôn, nội dung bài Kinh là lòng biết ơn. Lúc đó, Đức Phật đã bày tỏ lòng biết ơn cây Bồ Đề (cây Pippala), nơi Ngài ngồi dưới cội cây và được che mưa nắng nhiều tuần lễ cho tới khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác. Một điểm đặc biệt: biết ơn nhưng không dính mắc, vẫn luôn luôn nhìn thấy thế giới này trong thực tướng vô ngã.
11/03/2022(Xem: 4101)
Kính thưa chư Tôn đức, chư Pháp hữu & quí vị hảo tâm. Bát cháo sữa của nàng thôn nữ Sujata tuy giá trị rất nhỏ, nhưng mang lại lợi ích cho nhân loại và quả địa cầu là rất lớn, vì nhờ đó mà Sa-môn Gautama không chết do kiệt sức. Những giúp đỡ nho nhỏ, từ thiện nho nhỏ, đôi lúc có giá trị lớn & có ý nghĩa lớn. Học theo gương hạnh của Sujata, chúng con, chúng tôi nguyện làm tất cả việc thiện bằng các điều kiện có thể, nhằm xoa dịu phần nào sự khốn khó của tha nhân trong thời buổi nhiều khó khăn này..
08/03/2022(Xem: 8183)
Qua thông tin của truyền thông đại chúng ( các đài truyền Úc và Vietface tivi) suốt 2 tuần qua tiểu bang New South Wales và Queensland, Úc Châu, đã hứng chịu những cơn mưa như trút nước chưa từng có trong nhiều thập niên qua, từ đó dẫn đến những cơn lũ lụt lớn, khiến cho hàng nghìn người phải sơ tán và nước lũ cũng cuốn trôi nhiều tài sản, gia súc, phá hủy các tuyến đường giao thông giữa 2 tiểu bang miền đông nước Úc này. Riêng tại New South Wales, có hơn 11 vùng hiện bị ngập nước là: Chipping Norton, East Hills, Georges Hall, Holsworhy, Lansvale, Milperra, Moorebank, Warwick Farm, Sandy Point, Pleasure Point, Picnic Point.Trong khi tại tiểu bang Queensland có hơn 18.000 ngôi nhà ở phía đông nam Queensland được cho là đã bị ngập lụt, và gần 60.000 ngôi nhà khác trên toàn khu vực bị mất điện. Tính cho đến giờ này chúng tôi đang viết thư ngỏ này vào 9 giờ sáng 8/3/2022, tiểu bang Queensland có 13 người chết và NSW có 4 người tử vong vì trận lụt kinh hoàng này.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567