Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

17 - Năng lực vô biên của vị tha

09/02/201920:16(Xem: 5671)
17 - Năng lực vô biên của vị tha

NĂNG LỰC VÔ BIÊN CỦA VỊ THA

 

 

 

 

 

Có bất cứ một đạo đức nào đồng đẳng với khuynh hướng vị tha này không?

Có bất cứ một thân hữu nào như vậy chứ?

 

- TỊCH THIÊN, Hướng Dẫn Lối Sống của Bồ Tát.

 

 

 

 

 

Giống như năm yếu tố của môi trường vật chất - không, đất, nước, lửa, và gió - là vô giới hạn, vì thế chúng sinh mà con người vị tha tìm cầu để hướng dẫn ra khỏi khổ đau tới thể trạng giác ngộ là vô giới hạn trong con số.  Sức mạnh trái tim của Bồ tát là như thế, các ngài cam kết với nhiệm vụ này trong việc hổ trợ tất cả chúng sinh - mà không có bất cứ giới hạn nào của thân hay thù, quốc gia hay chủng tộc - từ mỗi một loại khổ đau.  Các ngài muốn đưa chúng sinh vào trong thể trạng giác ngộ, được ban cho tất cả những phẩm chất thuận lợi tiềm tàng.  Để trở nên có thể cứu giúp trong một mức độ rộng rãi như vậy, các ngài tự nguyện từ trong chiều sâu trái tim của các ngài - rèn luyện trong vô số kỷ năng để tiến bộ đối với sự hoàn thiện của chính các ngài bất chấp chúng lâu dài như thế nào đi nữa, trải qua hàng vô số, a tăng kỳ kiếp sống, với nổ lực như áo giáp vô hình, ngăn ngừa sự thiếu nhẫn nại và thối chí.  Vì nhận thức của các ngài là quá rộng lớn, các ngài tích lũy nghiệp lực tích cực xứng đáng ngay cả khi các ngài đang ngủ năng lực cũng vô giới hạn cống hiến đến vô số chúng sinh .

 

Khi chúng ta quan tâm đến năng lực rộng lớn của giác ngộ và khối lượng thực hành khổng lồ tương ứng cần thiết để đạt đến, chúng ta có thể trở nên thối chí và chùn bước với nhiệm vụ.  Tuy nhiên, vì chúng sinh, những người tiếp nhận lòng từ ái và bi mẫn của chúng ta là vô hạn trong con số, năng lực lợi ích tích lũy bởi tâm vị tha của chúng ta cũng là vô giới hạn.  Trong cách này, những phẩm chất vô biên của giác ngộ, là những thứ có thể dường như khó khăn để gặt hái được qua tính chất bao la của chúng, có thể được thấy như có thể đạt được.  Việc phản chiếu cách này, chúng ta thấy rằng sự chuyển hóa thành giác ngộ là thực tế khả dĩ, do thế ngăn ngừa bất cứ khả năng nào của việc lười biếng và chần chừ.

 

Như Long Thọ nói trong Tràng Hoa Quý Báu rằng:

 

Qua tâm từ ái và bi mẫn của các ngài

Lòng vị tha quyết định để hướng dẫn

Vô lượng chúng sinh khỏi khổ đau

Và đưa họ vào trong Quả Phật.

 

Vì thế ngay cả khi đang ngủ

Sau khi thừa nhận một sự quyết tâm hoàn hảo như vậy

Những ai duy trì sự kiên định -

Mặc dù họ có thể không quá kỷ càng -

 

Luôn luôn tích lũy công đức tối thiểu như tất cả chúng sinh

Vì chúng sinh là vô lượng

Rồi thì hãy biết rằng bởi vì nguyên nhân là vô hạn

Nên Quả Phật vô biên thì không khó để đạt đến.

 

Sự lưu trú của lòng vị tha cho một thời gian vô hạn trong thế giới:

Vì vô lượng chúng sinh mà họ tìm cầu

Vô số phẩm chất của giác ngộ

Và tiến hành vô biên hành vi đạo đức.

 

Vì vậy mặc dù giác ngộ là vô lượng

Làm thế nào họ không thể đạt đến được

Với bốn nhân tố vô biên này

mà không phải cần thời gian quá dài!

 

Bằng việc hướng đến phạm vi hành đông của chúng ta không phải chỉ cho chính chúng ta hay một vài người thân cận mà ở mỗi một chúng sinh khắp hư không, hiệu quả chuyển hóa từ những hành vi tích cực của chúng ta được tăng lên gấp bội bởi vô lượng chúng sinh, là cánh đồng cho sự gieo trồng của chúng ta.  Trong cách này, lòng từ ái trở thành thành phần và nguyên nhân không thể tách rời của sự giác ngộ toàn vẹn.  Mặc dù vào lúc đầu chúng ta có thể đặt nghi vấn cho khả năng của Phật Quả, nhưng sự chuyển hóa tâm linh hoàn toàn trở nên thực tiển khi chúng ta lưu tâm đến hiệu quả của từ ái, bi mẫn và mục tiêu vị tha để trở nên giác ngộ.  Tất cả sẽ hổ trợ chúng ta trên hành trình tâm linh, và chúng ta sẽ ngạc nhiên vào năng lực của từ ái, bi mẫn và vị tha.

 

 

NGUYỆN ƯỚC HỔ TRỢ

 

Những nguyện ước chân thành cho sự phát triển tâm linh tương lai của chính mình và cho tiến trình của người khác tự nó là một hình thức của thiền tập.  Long Thọ nổi tiếng ở Ấn Độ và khắp Á châu vì đã xác định những nhận thức phóng đại của bản chất con người và sự vật và cho sự trình bày của ngài về mối quan hệ nhân quả, đã trước tác một hệ thống thệ nguyện diệu kỳ cho chính chúng ta và sự thành công của người khác trong những dạng thức của sức khỏe con người, phương pháp và những phẩm chất tâm linh.  Ở đây chúng là:

 

Qua công đức của những hành vi đạo đức

Mà tôi đã làm và sẽ làm

Nguyện cho tất cả chúng sinh ngưởng mộ

Đến quả giác ngộ tối thượng

 

Nguyện cho tất cả chúng sinh có những khả năng thuần khiết,

Thoát khỏi tất cả những điều kiện chướng ngại

Tự tại trong hành động và tài năng

Với sinh kế thánh thiện

 

Cũng nguyện tất cả chúng sinh

Có châu báu trong tay họ

Và nguyện cho tất cả những thứ cần dùng vô hạn của đời sống duy trì

không tiêu thụ hết cho đến khi vẫn còn vòng sinh tử.

 

Nguyện cho tất cả mọi người vào mọi thời

Được sinh ra trong những cung cách thuận lợi

Nguyện cho tất cả chúng sinh có

Sự thông minh của tuệ trí và đôi chân của đạo đức.

 

Nguyện cho tất cả chúng sinh có một cục diện vui vẻ

Thân thể tốt đẹp, rực rở thênh thang,

Một hiện tướng toại ý, thoát khỏi bệnh tật,

Mạnh khỏe, và sống lâu.

 

Nguyện cho tất cả giỏi giang trong phương tiện phân biệt khổ đau

Và có sự giải thoát khỏi tất cả đớn đau,

Thiên hướng đến sự thực tập tâm linh

Và sự phong phú vô cùng trong giáo huấn tâm linh.

 

Nguyện cho họ được trang hoàng với từ ái, bi mẫn, hoan hỉ,

Tâm ý tĩnh lặng trống rỗng những cảm xúc phiền não

Bố thí, đạo đức, nhẫn nhục, nổ lực,

Tập trung, và tuệ trí.

 

Hoàn thành hai sự tích tập về phúc đức và tuệ trí

Nguyện cho họ hiện tướng có những dấu  hiệu rực sáng và những biểu hiện xinh đẹp.

Nguyện cho họ vượt qua không bị trở ngại

Toàn bộ phạm vi của sự phát triển tâm linh

 

Tôi cũng nguyện được tô điểm hoàn toàn

Với những thứ và tất cả những phẩm chất thánh thiện khác.

Được tự do khỏi tất cả những khuyết điểm

Và có lòng từ ái siêu việt cho tất cả chúng sinh

 

Nguyện cho tôi hoàn thiện tất cả những đạo đức

Vì là những thứ mà tất cả chúng sinh hy vọng

Và nguyện cho tôi luôn luôn làm vơi nhẹ

Những khổ đau của tất cả những chúng sinh hiện thân

 

Nguyện cho tất cả những chúng sinh ấy trong tất cả thế giới

Những ai sầu khổ qua sợ hãi

Trở nên hoàn toàn vô úy

Mặc dù chỉ nghe tên tôi

 

Qua thấy hay nghĩ về tôi hay chỉ nghe tên tôi

Nguyện cho chúng sinh đạt được niềm vui lớn

Tự nhiên thoát  khỏi mọi lỗi lầm,

Xác định rõ ràng đối với sự giác ngộ hoàn toàn.

 

 Nguyện cho năm  loại thần thông

tương tục suốt khắp trong những kiếp sống

Nguyện cho tôi luôn luôn ở trong tất cả những phương cách mang

Sự giúp đở và hạnh phúc đến tất cả chúng sinh

 

Nguyện cho tôi luôn luôn không bị tổn hại

Đồng thời dừng lại

Những mong ước tạo tác các hành vị tệ hại

Của tất cả chúng sinh trong tất cả các thế giới.

 

Nguyện cho tôi luôn luôn là một đối tượng của hoan hỉ

Cho tất cả chúng sinh phù hợp với nguyện ước của họ

Và không bị trở ngại, như đất,

Nước, lửa, gió, thảo mộc, và rừng hoang sơ.

 

Nguyện cho tôi thân thiết với chúng sinh như đời sống của chính họ

Và nguyện thân thiết còn hơn thế đối với tôi.

Nguyện cho những hành vi tệ hại của họ trổ quả với tôi

Và tất cả những đạo đức của tôi trổ quả trong họ.

 

Cho đến khi còn bất cứ một chúng sinh nào

Bất cứ nơi nào chưa được giải thoát,

Nguyện tôi tiếp tục hiện hữu trong thế giới vì lợi ích của chúng sinh ấy

Mặc dù tôi đã đạt đến giác ngộ tối thượng.

 

Sau đó Long Thọ nói về giá trị của việc tiếp nhận những nguyện ước này vào trong tim:

 

Nếu công đức nói về điều này

Có hình sắc, nó sẽ không bao giờ chứa vừa

Trong những cõi của những thế giới

Nhiều như số cát trong sông Hằng

 

Đấng giác ngộ đã nói như thế,

Và lý do là điều này:

Công đức vô biên của nguyện ước

Cứu giúp vô lượng thế giới của chúng sinh

Thì giống như sự vô hạn của những chúng sinh ấy.

 

Bằng việc tiếp nhận những nguyện ước này từ trái tim, chúng ta cống hiến mục tiêu sâu xa nhất cho sự cát tường của người khác, do thế việc tích tập những năng lực tích cực rộng lớn như số lượng của chúng sinh bao hàm lãnh vực vị tha của chúng ta.

 

 

 

Nguyên tác: The Enormous of Altruism

Ẩn Tâm Lộ ngày 19-3-2012

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/02/2021(Xem: 5392)
Hình ảnh con trâu tượng trưng cho tâm ý của chúng sinh. Mỗi người ai cũng đều có một con “trâu tâm" của riêng mình. Và cứ như thế pháp chăn trâu được nhiều người sử dụng, vừa tự mình chăn vừa dạy kẻ khác chăn. Vào cuối thế kỷ mười ba, thời nhà Trần, trong THIỀN MÔN VIÊT NAM xuất hiện một nhân vật kiệt xuất. Đó là Tuệ Trung Thượng Sĩ tên thật là Trần Tung, ông là một thiền sư đắc đạo. Ông là người hướng dẫn vua Trần Nhân Tông vào cửa Thiền và có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng của vị vua sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử này.
08/02/2021(Xem: 4403)
Sau khi đạt được Giác ngộ, Đức Phật nêu lên Bốn Sự Thật và sự thật thứ nhất là "Khổ đau". Khổ đau ẩn chứa trong thân xác, bàng bạc trong tâm thức của mỗi cá thể con người và bùng ra cùng khắp trong thế giới: bịnh tật, hận thù, ích kỷ, lường gạt, đại dịch, bom đạn, chiến tranh... Sự thật đó, khổ đau mang tính cách hiện sinh đó, thuộc bản chất của sự sống, gắn liền với sự vận hành của thế giới. Sự thật về khổ đau không phải là một "phán lệnh" hay một cái "đế", cũng không mang tính cách "kỳ diệu" gì cả, mà chỉ là một sự thật trần trụi, phản ảnh một khía cạnh vận hành của hiện thực.
07/02/2021(Xem: 5276)
Nhà thiền có danh từ Tọa Xuân Phong để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp. Danh từ đó, tạm dịch là “Ngồi Giữa Gió Xuân” Mùa Xuân chẳng phải là mùa tiêu biểu cho những gì hạnh phúc nhất trong bốn mùa ư? Hạ vàng nắng cháy, vui chơi hối hả như đàn ve sầu ca hát suốt mùa để cuối mùa kiệt lực! Thu êm ả hơn, nhưng nhìn mây xám giăng ngang, lá vàng lả tả, tâm- động nào mà không bùi ngùi tưởng tới kiếp nhân sinh?
07/02/2021(Xem: 5507)
Chú mục đồng chậm rãi bước xuống sông. Bên cạnh chú, con trâu lớn nhất đàn ngoan ngoãn xuống theo. Đôi mắt hiền lành của nó nhìn chú như mỉm cười, tin tưởng và thuần phục. Những con trâu bé hơn lại nhìn bước đi vững chãi, an lạc của con trâu đầu đàn mà nối nhau, cùng thong thả qua sông. Đây là khúc sông cạn mà chú đã dọ dẫm kỹ lắm. Đáy sông lại không có những đá nhọn lởm chởm có thể làm chân trâu bị thương. Bên kia sông, qua khu rừng có những cội bồ đề râm mát là tới đồng cỏ rộng. Mùa này, sau những cơn mưa, cỏ non vươn lên xanh mướt, đàn trâu gồm bẩy con mà chú có bổn phận chăm sóc tha hồ ăn uống no nê sau những giờ cực nhọc cầy bừa ngoài đồng lúa.
07/02/2021(Xem: 8626)
Khi những cơn bảo và áp thấp nhiệt đới hung hãn nhất vừa tạm qua đi, khí trời phương Nam cũng trở buồn se lạnh. Nhiều người cho đó là hoàn lưu của những cơn bão miền Trung mà tất cả con dân “bầu bí chung dàn” vẫn còn đang hướng về chia sẻ, nhưng ít người nhận ra rằng đó chính là cái se lạnh của mùa đông phương Nam, báo hiệu mùa xuân sắp đến nơi ngưỡng cửa của bộn bề lo toan hằng năm.
06/02/2021(Xem: 6494)
Mười bức “Tranh Chăn Trâu” trong phần này là của họa sư Nhật Bản Gyokusei Jikihara Sensei, vẽ vào năm 1982 nhân một cuộc thăm viếng thiền viện Zen Mountain Monastery ở Mount Tremper, New York, (Hoa Kỳ). Họa sư vẽ để tặng thiền viện. Các bài thơ tụng thời nguyên gốc của thiền sư Quách Am viết vào thế kỷ thứ 12. Thơ tụng được chuyển dịch ở đây bởi Kazuaki Tanahashi và John Daido Loori, sau đó được nhuận sắc bởi Daido Loori để mong tạo lập ra những hình ảnh và ẩn dụ cho thêm giống với phong cảnh núi sông ở quanh thiền viện Zen Mountain Monastery. Thiền sư Daido Loori là người lãnh đạo tinh thần và là tu viện trưởng của thiền viện này.
04/02/2021(Xem: 6229)
Hôm qua mình có giới thiệu cuốn sách Buddhism in America (Phật Giáo Mỹ) của Richard Hughes Seager. Có bạn hỏi thêm muốn tìm hiểu Phật Giáo Mỹ nên nhờ mình giới thiệu vài cuốn. Nghĩ rằng đây là câu hỏi hay nên mình xin viết giới thiệu 7 cuốn sách để nhiều người lợi lạc. 1. Cuốn The Faces of Buddhism in America (Diện Mạo của Phật Giáo ở Mỹ) do Charles Prebish 2. Buddhist Faith in America (Đức Tin Phật Giáo ở Mỹ) tác giả Michael Burgan 3. Buddhism in America của Richard Huges Seager (1999, tái bản 2012) 4. Buddhism in America của Scott Mitchell 5. Altered Traits: Science Reveals How Meditation Changes Your Mind, Brain, and Body, 2017 6. A Mindful Nation: How a Simple Practice Can Help Us Reduce Stress, Improve Performance, and Recapture the American Spirit, 2012, 7: American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
01/02/2021(Xem: 4532)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 9546)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 5992)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]