Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

12 - Từ ái yêu thương như căn bản của nhân quyền

09/02/201920:14(Xem: 4915)
12 - Từ ái yêu thương như căn bản của nhân quyền

TỪ ÁI YÊU THƯƠNG NHƯ CĂN BẢN CỦA NHÂN QUYỀN

 

 

 

 

Biết sự tương ứng

về hành động và kết quả của chúng.

Trong thực tế hãy luôn luôn giúp đở chúng sinh,

Giống như giúp đở chính mình.

 

- LONG THỌ, Tràng Hoa Quý Báu

 

 

 Chính là con người có một cảm nhận đáng giá về cái "tôi" và đồng hành một cách tự nhiên từ cảm nhận ấy  mà chúng ta muốn theo đuổi hạnh phúc và lẫn tránh khổ đau.  Đây là quyền lợi bẩm sinh của chúng ta, và điều không cần phải bàn cải gì hơn nữa.  Những chúng sinh khác cũng mong ước được tự do khỏi khổ đau, vì thế nếu chúng ta có quyền vượt thắng khổ đau, thế thì những chúng sinh khác tự nhiên cũng có cùng quyền con người như vậy.  Vậy thì điều gì là sự khác biệt giữa tự thân và người khác?  Có một sự khác biệt lớn lao con số, nếu không phải là bản chất.  Những người khác là con số nhiều hơn ta vô cùng.  Ta chỉ là một, và con số của những chúng sinh khác là vô hạn.

 

Ai là quan trọng hơn, ta hay những người khác?  Tôi chỉ là một thầy tu Đạo Phật, nhưng những chúng sinh khác là con số vô biên.  Kết luận là rõ ràng, ngay cả nếu một nổi khổ nho nhỏ xảy ra đến tất cả những người khác, phạm vi là vô hạn, trái lại khi điều gì đấy xảy ra cho tôi, nó là giới hạn đến chỉ một người.  Khi chúng ta nhìn vào những người khác trong cách này, tự thân là không quá quan trọng.

 

Trong mười người bệnh, ai không muốn hạnh phúc?  Không ai cả.  Tất cả mọi người muốn thoát khỏi bệnh tật của họ.  Trong sự thực tập vị tha, không có lý do nào ngoại lệ nào để đối xử với một người tốt đẹp hơn trong khi quên lãng những người khác.  Trong thế giới này có hàng tỉ người, người nào, cũng giống như tôi, không ai muốn khổ đau và thật sự muốn hạnh phúc.

 

Từ quan điểm của chính mình, hãy nhớ rằng tất cả chúng sinh đã từng giúp đở chúng ta qua phạm vi những đời sống quá khứ và sẽ hổ trợ chúng ta trong những kiếp sống tương lai.  Do vậy, không có lý do nào để đối xử người nào đấy là tốt đẹp hơn những người khác là tệ hại hơn.

 

Tất cả chúng ta có một bản chất của khổ đau và vô thường.  Một khi chúng ta nhận ra rằng cộng đồng chúng ta ở trong một sự khốn khó [của khổ đau và nhất là vô thường], không lý do nào trong việc đấu tranh lẫn nhau.  Hãy xem một nhóm tù nhân sắp bị hành quyết.  Trong thời gian họ ở với nhau trong nhà tù, tất cả bọn họ sẽ đi đến chỗ kết cục.  Không có ý nghĩa gì trong việc tranh cải trong những ngày còn lại của họ.  Tất cả chúng ta quyện kết trong cùng một bản chất của khổ đau và vô thường, chắc chắn không có lý do gì để tranh đấu với nhau.

 

 

THIỀN QUÁN

 

1- Hãy chú ý kinh nghiệm tự nhiên của chúng ta về cái "tôi", như trong "tôi muốn điều này", "tôi không muốn điều nọ."

 

2- Hãy nhận ra rằng thật tự nhiên để muốn hạnh phúc và không muốn đớn đau.  Điều này là đúng và không cần đòi hỏi tranh cải gì nữa, được đánh giá một cách giản dị bằng sự kiện rằng  chúng ta muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau một cách bẩm sinh.

 

3- Được căn cứ trên khát vọng tự nhiên này, chúng ta có quyền đạt được hạnh phúc và loại bỏ khổ đau.

 

4- Xa hơn, giống như chúng ta có cảm nhận này và quyền lợi này, người khác cũng có cùng cảm nhận và cùng quyền lợi một cách bình đẳng.

 

5- Hãy phản chiếu trên sự kiện rằng sự khác biệt giữa tự thân và người khác là ta chỉ là một người đơn lẻ, trái là những người khác là vô lượng.

 

6- Đề ra câu hỏi này: mọi người phải được dùng đến cho việc đạt đến hạnh phúc của tôi, hay tôi nên giúp đở người khác đạt được hạnh phúc?

 

7- Hãy tự tưởng tượng, trầm tĩnh và hợp lý, việc nhìn vào quyền lợi của chính mình trong một phiên bản khác - nhưng cái tự ngã này tự hào quá đáng, không nghĩ đến quyền lợi của người khác, quan tâm chỉ với tự thân của nó, sẳn sàng để làm bất cứ điều gì để thỏa mãn nó.

 

8- Hãy hình dung bên trái ta một số những người khốn khó không liên hệ đến ta, nghèo nàn và đau khổ.

 

9- Bây giờ, ta đang ở ngay chính giữa là một người nhạy cảm không thành kiến.  Hãy xem cả hai bên muốn hạnh phúc và muốn tiêu trừ khổ đau; trong cách này, họ là đồng đẳng, giống nhau.  Và cả  hai bên có quyền để hoàn tất mục tiêu của họ.

 

10- Nhưng hãy nghĩ:

 

Người với động cơ vị kỷ ở bên phải chỉ là một con người, trái lại những người khác là con số lớn hơn nhiều, ngay cả là vô hạn.  Ai là người quan trọng hơn?  Con người vị kỷ đơn lẻ và ngu si đó, hay nhóm người nghèo, và bất lực nọ?

 

Ta sẽ chọn phía nào?  Như một người không định kiến ở giữa, chúng ta sẽ liên hệ một cách tự nhiên đến số lượng lớn những người đau khổ; không có cách nào tránh khỏi bị áp đảo với những nhu cầu  của đám đông, một cách đặc biệt trong sự tương phản đến một người với các tính tự hào, ngu si ấy.

 

11-  Hãy phản chiếu:  Nếu tôi, chỉ là một người, lợi dụng số đông, thật là trái ngược với tính người của tôi.  Thực tế, hy sinh một trăm đô la vì lợi ích của một đô la là rất ngu ngơ, nhưng dùng một đô la vì lợi ích của một trăm đô la là rất thông tuệ.

 

12- Nghĩ theo cách này, quyết định:

 

Tôi sẽ hướng trực tiếp năng lượng của tôi đến nhiều người hơn là đến con người vị kỷ này.  Mỗi bộ phận của thân thể được xem đồng đẳng là thân thể và được bảo vệ khỏi đau đớn; vì thế tất cả chúng sinh được bảo vệ bình đẳng khỏi khổ đau.

 

Đối với tôi, phương pháp thiền quán này đặc biệt hiệu quả.  Rất rõ ràng rằng tất cả những rắc rối trên trái đất này một cách căn bản là qua chủ nghĩa vị ngã và tự yêu mến riêng mình.  Chúng ta có thể thấu hiều những nguyên tắc của phương pháp thiền quán này từ kinh nghiệm của riêng mình ngay trong kiếp sống này - rằng sự tự yêu mến đưa đến ý chí tệ hại, ngay cả giết người, và yêu mến người khác đưa đến những đạo đức chẳng hạn như từ bỏ giết hại, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói lời chia rẻ, nói lời thô ác, nói lời vô ích.

 

Với phương pháp thiền quán này, ngay cả nếu chúng ta không tỉnh thức về lòng ân cần với người khác, chúng ta có thể học hỏi để yêu mến người khác.  Hãy nhớ rằng chúng ta yêu mến chính mình một cách tự nhiên, không phải trong bất cứ ý nghĩa nào là chúng ta đã và đang tử tế với chính mình.  Từ chính thực tế rằng chúng ta yêu mến đời sống của mình, chúng ta muốn loại trừ khổ đau và đạt được hạnh phúc.  Trong cùng cách ấy, tất cả chúng sinh tự nhiên yêu mến chính họ, và từ điều này họ muốn xa tránh khổ đau và đạt đến hạnh phúc.  Tất cả chúng ta cũng giống như thế, sự khác biệt là người khác là rất nhiều, trái lại ta chỉ là một.  Ngay cả nếu chúng ta có thể dùng tất cả những người khác cho những mục tiêu của chính mình, chúng ta cũng sẽ không hạnh phúc.  Nhưng nếu ta, chỉ là một con người, phục vụ người khác một cách trọn vẹn như chúng ta có thể làm, hành động này sẽ một nguồn gốc của niềm an vui nội tại.

 

Thật dễ dàng để thấu hiểu rằng chúng ta sẽ mất mát nếu chúng ta quên lãng mọi người khác qua việc quá nhấn  mạnh đến chính mình và chúng ta sẽ gặt hái rất lớn từ việc quý trọng người khác khi chúng ta yêu mến chính mình.  Vì những sự kiện này được chứng thực bởi kinh nghiệm của chính chúng ta.  Tôi thấy rằng phương pháp thiền quán này có một tác động rất lớn.

 

Hãy tiếp nhận những sự thực tập này vào trong trái tim và chúng ta dần dần sẽ trở nên ít vị kỷ hơn và có sự tôn trọng hơn với người khác.  Với một thái độ như vậy, từ ái và bi mẫn thật sự có thể lớn mạnh.

 

 

TÓM LƯỢC

 

Nhiều loại ý thức giá trị phát sinh từ nhận thức căn bản, tự nhiên, và rõ ràng.  Tất cả chúng ta có một cái "tôi" bẩm sinh, mặc dù nếu chúng ta cố gắng để xác định vị trí của cái "tôi" này, nhưng chúng ta gặp phải nhiều khó khăn.  Ý nghĩa này của cái "tôi" cho chúng ta một sự khát vọng hợp lý đến hạnh phúc và một mong ước không khổ đau.

 

Có những trình độ khác nhau của hạnh phúc và những loại khổ đau khác nhau.  Những thứ vật chất thường đáp ứng đến hạnh phúc thân thể, trái lại sự phát triển tâm linh đáp ứng đến hạnh phúc tâm linh.  Vì cái "tôi" của chúng ta có hai khía cạnh - thân thể và tinh thần - chúng ta cần một sự phối hợp bất khả phân của tiến trình vật chất và tiến trình nội tại hay tâm linh.  Việc cân bằng những thứ này là thiết yếu để khai thác tiến trình vật chất và sự phát triển nội tại cho sự tốt đẹp của xã hội loài người.

 

Sơ đồ cho sự phát triển thế giới phát sinh từ mong ước này để đạt được hạnh phúc và giải thoát khổ đau.  Nhưng có những trình độ cao hơn của hạnh phúc vượt khỏi những hình thức trần tục này, mà trong ấy chúng ta tìm cầu điều đấy cho mục tiêu dài hạn không chỉ hạn chế trong kiếp sống này.  Giống như chúng ta cần một nhận thức sâu rộng có thể bảo vệ môi trường, chúng ta cần một nhận thức nội tại thâm sâu mở rộng đến những kiếp sống tương lai.

 

Tôi thường khuyến nghị rằng ngay cả nếu chúng ta phải vị kỷ, thế thì vị kỷ một cách thông tuệ.  Những người thông tuệ phụng sự người khác một cách chân thành, đặt những nhu cầu của người khác bên trên chính mình.  Kết quả căn bản sẽ là chúng ta sẽ hạnh phúc hơn.  Những loại vị kỷ đưa đến đánh nhau, giết chóc, trộm cắp, và sử dụng lời thô ác - quên lợi ích người khác, luôn nghĩ về chính mình, "tôi, tôi, tôi" sẽ đưa đến kết quả trong sự mất mát của chính mình.  Những người khác có thể nói những lời đẹp đẻ trước mặt chúng ta, nhưng sau lưng chúng ta họ sẽ nói những lời không đẹp.

 

Sự thực tập vị tha là một cung cách xác thực để hướng dẫn đời sống nhân loại và không chỉ giới hạn trong tôn giáo.  Cốt lõi sự tồn tại của chúng ta là, như những con người, chúng ta sống những đời sống có mục tiêu và đầy đủ ý nghĩa.  Mục tiêu của chúng ta là để phát triển một trái tim nồng ấm.  Chúng ta thấy ý nghĩa trong việc là một người thân hữu đến mọi người.  Cội nguồn duy nhất của hòa bình trong gia đình, xứ sở, và thế giới là lòng vị tha - từ ái yêu thương và bi mẫn ân cần.

 

Nguyên tác:  Love as the basic of human rights

Ẩn Tâm Lộ ngày 14-3-2012

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/03/2022(Xem: 9291)
CHÁNH PHÁP Số 124, tháng 3.2022 Hình bìa của Kranich17 (Pixabay.com) NỘI DUNG SỐ NÀY: THƯ TÒA SOẠN, trang 2 TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 XUÂN VỀ (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 6
01/03/2022(Xem: 5661)
Những ngày gần đây, dường như chánh niệm đang lan tỏa khắp mọi nơi. Khi tìm kiếm trên Google mà tôi đã thực hiện vào tháng 1 năm 2022 cho cụm từ "Chánh niệm" (Mindfulness) đã thu được gần 3 tỷ lượt truy cập. Phương pháp tu tập thiền chánh niệm này hiện được áp dụng thường xuyên tại các nơi làm việc, trường học, văn phòng nhà tâm lý học và các bệnh viện trên khắp cả nước Mỹ.
01/03/2022(Xem: 5767)
Hàng trăm đồ tạo tác vật phẩm văn hóa Phật giáo đã bị đánh cắp hoặc phá hủy sau cuộc quân sự Taliban tấn công và tiếp quản Chính quyền Afghanistan ngày 15 tháng 08 năm 2021. Hôm thứ Ba, ngày 22 tháng 02 vừa qua, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cho biết, Hợp chúng quốc đã hạn chế các vật phẩm văn hóa Phật giáo và lịch sử từ Cộng hòa Hồi giáo Afghanistan, với hy vọng ngăn chặn "những kẻ khủng bố" kiếm lợi, nhưng các chuyên gia bày tỏ lo ngại về những hậu quả không mong muốn.
24/02/2022(Xem: 4350)
Nhà kiến tạo hòa bình, nhà tâm lý học, nhà cải cách xã hội học, nhà giáo dục và Phật giáo Dấn thân nổi tiếng, người Mỹ và được trên thế giới kính trọng, Tiến sĩ Phật tử Paula Green sinh vào ngày 16 tháng 12 năm 1937 tại Hoa Kỳ, đã thanh thản trút hơi thở từ giã trần gian vào ngày 21 tháng 2 năm 2022, hưởng thọ 84 tuổi.
24/02/2022(Xem: 4259)
Tôi học mãi Phẩm 6 về “ Người Hiền Trí “trong kinh Pháp Cú và bài thứ tư trong kinh Trung Bộ “ Sợ Hãi và Khiếp Đảm “ mà vẫn không chán vì càng học càng thấy nhiều lợi ích để tu tập và sửa đổi những tật xấu và lỗi lầm của mình trên đường tu học nhất là khi mình được một đại phước duyên gần gũi một bậc hiền trí . Thú thật ….trong những năm tự nhốt mình trong tháp ngà tôi đã nghiên cứu Thiền, Tịnh, Mật, rất cẩn thận từ ghi chép, nghe nhiều pháp thoại, so sánh kinh sách nhiều tông phái …thế nhưng chưa bao giờ như lúc này tôi cảm nghiệm lời dạy Đức Phật lại thâm huyền và siêu việt hơn bao giờ hết khi phối hợp hai phẩm này trong hai bộ kinh căn bản nhất cho những ai bước trên đường Đạo . Trộm nghĩ dù với tuổi nào khi chưa hoàn tất hay gặt hái được mục đích thành tựu của Trí Tuệ ( DUY TUỆ THỊ NGHIÊP) thì chúng ta hãy cứ bước đi mà chẳng nên dừng lại .
24/02/2022(Xem: 8508)
Tác giả tác phẩm này là Tỳ Kheo Sujato, thường được ghi tên là Bhikkhu Sujato, một nhà sư Úc châu uyên bác, đã dịch bốn Tạng Nikaya từ tiếng Pali sang tiếng Anh. Bhikkhu Sujato cũng là Trưởng Ban Biên Tập mạng SuttaCentral.net, nơi lưu trữ Tạng Pali và Tạng A Hàm trong nhiều ngôn ngữ -- các ngôn ngữ Pali, Sanskrit, Tạng ngữ, Hán ngữ, Việt ngữ và vài chục ngôn ngữ khác – trong đó có bản Nikaya Việt ngữ do Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch từ Tạng Pali, và bản A-Hàm Việt ngữ do hai Hòa Thượng Tuệ Sỹ và Thích Đức Thắng dịch từ Hán Tạng.
22/02/2022(Xem: 5466)
Trong lịch sử, các đại dịch đã buộc nhân loại phải đoạn tuyệt với quá khứ và hy vọng ở tương lai thế giới mới của họ. Điều này không có gì khác lạ. Nó là một cổng thông tin, một cửa ngõ, giữa thế giới đương đại và thế giới tương lai. Nhà văn, nhà tiểu luận, nhà hoạt động người Ấn Độ Arundhati Roy, Đại dịch là một cổng thông tin
21/02/2022(Xem: 4129)
Bốn Sự Thật Cao Quý được các kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ Diệu Đế, là căn bản của toàn bộ Giáo Huấn của Đức Phật và cũng là một đề tài thuyết giảng quen thuộc. Do đó đôi khi chúng ta cũng có cảm tưởng là mình hiểu rõ khái niệm này, thế nhưng thật ra thì ý nghĩa của Bốn Sự Thật Cao Quý rất sâu sắc và thuộc nhiều cấp bậc hiểu biết khác nhau. Bài chuyển ngữ dưới đây đặc biệt nhấn mạnh đến nguồn gốc vô minh tạo ra mọi thứ khổ đau cho con người, đã được nhà sư Tây Tạng Guéshé Lobsang Yésheé thuyết giảng tại chùa Thar Deu Ling, một ngôi chùa tọa lạc tại một vùng ngoại ô thành phố Paris, vào ngày 16 và 30 tháng 9 năm 2004. Bài giảng được chùa Thar Deu Ling in thành một quyển sách nhỏ, ấn bản thứ nhất vào năm 2006.
19/02/2022(Xem: 6307)
Nhân Tết Nhâm Dần, với tâm niệm hộ trì Tam Bảo và mừng tuổi chư Tăng tu hành nơi xứ Phật chúng con, chúng tôi vừa thực hiện một buổi cúng dường Trai Tăng & tịnh tài đến chư Tôn đức Tăng già, các bậc xuất sỹ thường trú tại khu Thánh tích Bồ Đề Đạo Tràng, nơi đức Thế Tôn thành Đạo..
18/02/2022(Xem: 5205)
Phải công nhận với đà tiến triển kỹ thuật văn minh của vi tính, những gì ta có thể được tiếp xúc, thọ nhận sẽ nhiều hơn ngày trước ngàn lần ... khiến chúng ta đã có thể thay đổi dễ dàng theo sự tiến hóa của nhân loại và mở rộng sự hiểu biết với thế giới bên ngoài, hơn thế nữa ký ức chúng ta cũng được lưu lại dưới dạng hình ảnh, những bài pháp thoại và những trang cập nhật có thể truy cứu trong vài phút ...đó là lý do tôi ao ước được viết lại cảm nghĩ của mình khi nghe lại bài pháp thoại tuyệt vời từ 6 năm về trước tại Tu Viện Quảng Đức. Kính xin niệm ân tất cả nhân duyên đã cho tôi có cơ hội này ....
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]