Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

06 - Nghĩ về thân và thù

09/02/201920:13(Xem: 4746)
06 - Nghĩ về thân và thù

NGHĨ VỀ THÂN VÀ THÙ

BƯỚC NỀN TẢNG

 

 

 

 

Trong hiện tại con thấy rằng thật không thể chịu nổi vì người thân của con khổ đau, nhưng con vui thích khi kẻ thù con đau khổ, và con dửng dưng đến khổ đau của những người không liên hệ.

 

- Tông Khách Ba, Đại Luận Con Đường Tiệm Tiến - Lamrim [1]

 

 

 Từ nền tảng bản chất thật sự của tâm, chúng ta cần phát triển từ ái và bi mẫn thật mạnh mẽ rằng khổ đau của người khác trở nên không thể chịu nổi.  Vì từ ái và bi mẫn phải được cảm nhận một cách bình đẳng cho tất cả mọi loài chúng sinh, sức mạnh của những thái độ này sẽ tùy thuộc trên mức độ của sự gần gũi hay thân thiết mà chúng ta cảm nhận cho người khác.  Thí dụ, khi một người bạn thân ngã bệnh, cảm giác từ ái và bi mẫn, nguyện ước của chúng ta rằng con người này được tự do khỏi bệnh đau và được hồi phục sức khỏe, là mạnh mẽ hơn nó có thể là cho một người chỉ quen biết, hay cho ai đấy mà chúng ta không thích.  Loại từ ái và bi mẫn này bị lẫn lộn với khao khát theo đuổi một lợi ích nào đấy cho chính chúng ta.

 

Nếu một người trước đây tướng mạo hấp dẫn với cá tính vui vẻ dễ thương đánh mất bề ngoài hay tính tình ấy đi, thì thiện ý để cảm tình với người ấy có thể biến mất.  Nhưng nếu chúng ta có một cảm nhận từ bi cho một người xấu xí, thế thì bất kể dung mạo người ấy thay đổi như thế nào đi nữa, cảm nhận từ bi không bị rơi rớt.  Trong thí dụ lòng thương yêu bi mẫn thứ nhất lẫn lộn với tham dục: người ấy lôi cuốn chúng ta (hay nói đúng hơn đây là luyến ái).  Tâm chúng ta đã thổi phồng những đặc trưng dễ thương của người ấy vì thế tham dục phát sinh, và chúng ta cảm thấy một lòng ước ao khao khát, một hổn hợp của lòng mật thiết và mong ước làm nhỏ đi bất cứ nổi khổ đau nào mà người ấy đang chịu đựng.  Tuy nhiên, lòng bi mẫn thuần khiết không thành kiến hay cục bộ; nó hoàn toàn thấm nhuần với hành xả và hoàn thiện cả bạn và thù.

 

Không có nhận thức bình đẳng, từ ái và bi mẫn không định kiến thậm chí không thể khai triển được.  Một khi chúng ta đã phát sinh một thái độ bình đẳng đối với tất cả, sau đó nó mới có thể nhìn không chỉ những người bạn mà những người trung tính (chẳng ghét-thương) và ngay cả những kẻ thù với một sự mến yêu rộng rãi.  Điều này không dễ dàng.  Thật khó khăn để phát triển một cảm giác thân cận đến mọi người.  Thiền quán phản chiếu là cần thiết.

 

BÌNH ĐẲNG

 

Bắt đầu bằng việc chú ý rằng trong tâm, chúng ta có ba đặc trưng chính cho con người - bạn, người trung tính, và kẻ thù.  Chúng ta có thể có nhiều thái độ đối với họ, nhưng ba loại trên là sự quan tâm của chúng ta ở đây - tham dục, dửng dưng sinh khởi từ sự thờ ơ, và thù hận, tương ứng cho từng thứ.  Khi bất cứ một thứ nào trong ba thái độ này hiện diện, thì không thể phát sinh một cảm giác gần gũi với mọi người.  Tham dục, thù hận, và dửng dưng phải được làm cho trung hòa.

 

THIỀN QUÁN

 

Ở đây là việc chúng ta có thể trau dồi hành xả trong thiền quán như thế nào.

 

1- Quán tưởng một người bạn, một người thù, và một người trung tính một cách đồng thời.

 

2- Thẩm tra cảm giác của chúng ta để thấy ai đang được ôm giữ một cách thân thiết và ai được xem như là xa cách.  Chúng ta cảm thấy gần gũi tự nhiên với bạn chúng ta; việc quan tâm đến kẻ thù, chúng ta không chỉ cảm thấy xa cách mà đôi khi cũng là giận dữ hay phát cáu; chúng ta không cảm thấy gì cho người trung tính hay không quen biết.  Khảo sát tại sao.

 

3- Xem xét có phải người bạn xuất hiện thân cận bởi vì cô ta đã hổ trợ chúng ta và bè bạn chúng ta.

 

4- Xem xét có phải kẻ thù xuất hiện xa cách bởi vì người ấy đã làm tổn hại chúng ta và bè bạn chúng ta.

 

5- Xem xét có phải chúng ta cảm thấy dửng dưng đối với người trung tính bởi vì người ấy không giúp đở cũng không làm tổn hại chúng ta và bè bạn chúng ta.

 

6- Nhận ra rằng, giống như chính mình, tất cả những người này muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau, và trong cung cách quan trọng này, họ là bình đẳng.

 

7- Duy trì với nhận thức này cho đến khi nó chìm sâu vào trong tâm hành giả.

 

LÀM NỔI BẬT

 

Nếu chúng ta mở ra khả năng rằng sự tái sinh trong quá khứ và tương lai qua một sự tương tục của đời sống có thể xảy ra, chúng ta có thể làm nổi bật nhận thức bình đẳng bằng việc lưu tâm đến quan hệ mật thiết của tái sinh.  Một sự tương tục của các đời sống có nghĩa là những sự tái sinh không có sự bắt đầu.  Qua tiến triển của nhiều kiếp sống, mọi người có thể đã từng ở trong nhiều loại quan hệ với nhau.  Chúng ta không thể chắc rằng những ai bây giờ là bè bạn đã luôn luôn là bằng hữu trong quá khứ và những ai bây giờ là kẻ thù đã luôn luôn là những người thù địch của chúng ta.  Ngay cả trong một đời sống này, có những cá nhân, người trước đây là kẻ thù nhưng sau này biến thành thân hữu, và những người khác đã từng là bạn hữu nhưng sau này trở thành những kẻ thù.  Việc nhìn vào tương lai, không có lý do gì tại sao một kẻ thù phải mãi là một người thù địch và một người bạn sẽ phải mãi mãi là một bằng hữu.  Bè bạn, kẻ thù, và những người trung tính là bình đẳng bởi vì họ có thể đổi chỗ thay thế cho nhau từ vai trò này sang vai trò nọ.

 

Kết quả là, không có cách nào để quyết định sau cùng một cách hoàn toàn rằng một người nào đấy là kẻ thù vĩnh viễn của chúng ta và do thế, phải nên loại bỏ, hay là một người nào đó là bạn hữu vĩnh viễn và vì thế phải được yêu mến , hay rằng ai đấy sẽ luôn luôn là một người trung tính xa lạ và do thế phải được đối xử một cách dửng dưng.  Đúng hơn, tất cả đã hành động một cách đồng đẳng như những kẻ thù, bạn hữu, và trung tính.  Nếu ai đấy làm tổn hại chúng ta năm trước nhưng giúp đở chúng ta năm nay, và một người khác giúp đở chúng ta năm rồi nhưng lại làm tổn hại chúng ta hiện tại, họ là như nhau, có phải thế không?  Đây là tại sao thật vô lý trong việc nhất quyết  lưu tâm một người nào đấy chỉ là bạn hữu và một người khác chỉ là kẻ thù, hay chỉ là trung tính.  Cấu trúc căn bản của đời sống là không hoàn toàn ổn định:  đôi khi chúng ta thành công, thỉnh thoảng chúng ta thất bại.  Mọi thứ luôn luôn thay đổi, thay đổi và thay đổi.  Thế đấy, chúng ta trải nghiệm những cảm giác cứng nhắc và ổn cố đối với bạn bè, và kẻ thù như vậy là sai lầm một cách đơn giản.  Phản chiếu trên điều này sẽ dần dần đưa tâm chúng ta đến hành xả (buông bỏ những chấp trước).

 

THIỀN QUÁN

 

1- Suy xét rằng ngay cả trong khoảng thời gian của tuổi thọ kiếp sống này, không chắc chắn rằng những cá nhân đặc biệt nào đấy sẽ luôn luôn là bạn hữu, kẻ thù, hay trung lập.  Quán chiếu những thí dụ của điều này từ chính đời sống của mình - một người trung lập đã trở thành một người bạn; một người trung lập trở thành một người thù; một người bạn trở thành trung lập, hay một người thù; một người thù trở thành một người bạn.

 

2- Quán tưởng ai đấy hiện tại là một người trung lập và tưởng tượng rằng cô ta đem đến sự giúp đở và là tổn hại trong những kiếp sống quá khứ.

 

3- Tưởng tượng một người bạn đã giúp đở nhiều trong kiếp sống này đã đem đến tổn hại cho mình trong một kiếp sống trước và là trung lập vào những lúc khác.

 

4- Tưởng tượng rằng một người thù đã tổn hại mình trong kiếp sống này là trung lập trong một kiếp sống nào đây và đã đem đi đem lại nhiều lần những lợi ích trong những lúc khác.

 

5- Hãy thấy rằng trong nhận thức dài lâu của nhiều kiếp sống, bạn bè, kẻ thù, và người quán sát trung lập tất cả đều bình đẳng giúp đở và gây hại cho mình hay bạn bè mình, vì thế không thể kết luận rằng họ chỉ độc nhất là thứ này hay thứ kia.

 

6- Nhận ra rằng trong dạng thức trong sự giao hảo của tiến trình dài lâu của sự tái sinh không có khởi đầu, không ai trong chúng ta có thể quyết định rằng ai đấy người đã giúp đở hay tổn hại chúng ta trong kiếp sống này đã, đang và sẽ làm như thế trong mọi kiếp sống.

 

7- Quyết định rằng thật không đúng để chỉ ra một người cho sự thân thiết, một người khác cho trung lập dửng dưng, và một người nữa cho sự ghét bỏ.

 

 

Phản chiếu cách này, làm sâu sắc ý nghĩa cảm nhận bình đẳng đối với bè bạn, kẻ thù, và người trung lập.

 

Dường như có thể thiết yếu hơn để quan tâm những gì người khác đang làm cho mình hay đến mình trong hiện tại hơn là những kiếp sống trước đây, nhưng việc  này không như vậy.  Như chúng tôi đã chỉ, vị thế một cá nhân như bạn hay thù có thể thay đổi ngay trong một kiếp sống.  Sự giúp đở hay tổn hại từ một người khác là tạm thời, và chỉ thời gian mà thôi thì có thể không phải là cơ sở cho việc chọn lựa sự mật thiết hay ghét bỏ.  Hãy quyết định rằng thật không thực tế  để khao khát một cách mãnh liệt những ai hiện tại giúp đở mình và thù ghét dữ dội những người hiện tại đang làm tổn hại chúng ta.

 

KỶ NĂNG HỔ TRỢ

 

Khi chúng ta quán chiếu vấn đề này, sự thấu hiểu nồng nhiệt về những người như bạn bè và những người khác như kẻ thù, và sự phát sinh hợp lý của khát vọng và thù ghét, sẽ trở nên yếu ớt  hơn trong sức mạnh.  Tuy thế, để mang mối quan hệ mật thiết của những thiền quán này về tổ ấm, thật hữu ích để phản chiếu trong một khung cảnh  gây ấn tượng sâu sắc hơn.

 

1- Quán tưởng hai người.

 

2- Tưởng tượng rằng một người đang vung quả đấm vào hành giả.

 

3- Phản chiếu trên lý do cho việc trở nên khó chịu: hành giả dường như ở trong một hiểm họa sắp bị đánh.

 

4- Tưởng tượng một cách năng động rằng người thứ hai cùng lúc ấy đang làm điều gì đấy dễ chịu cho chúng ta - cầu nguyện cho chúng ta, tặng phẩm vật cho chúng ta, hay vuốt ve cánh tay chúng ta.

 

5- Thẩm tra tại sao chúng ta quá hài lòng với điều này.  Đó là qua một tinh cảnh tạm thời ngắn ngủi mà chúng ta quá thích ý.

 

6- Thấu hiểu điều này, lưu ý rằng những phản ứng của chúng ta với sự quan tâm đến bạn bè hay kẻ thù là không sâu sắc lắm.

 

THIỀN QUÁN KẾT  LUẬN

 

Không có gì chắc chắn rằng một người bạn, một người thù, và một người dưng sẽ mãi mãi lúc nào cũng giúp đở, gây hại, hay không gây hại cũng không giúp đở.  Khi những tư tưởng và động cơ tiêu cực chẳng  hạn như thù hận hay giận tức hiện diện, ngay cả một người bạn cũng được thấy như một người thù, nhưng khi những tư tưởng đối với một người thù biến mất, thì kẻ thù trở thành một người bạn.  Phản chiếu trên những điều sau đây:

 

1- Từ quan điểm của chính họ những người bạn, những kẻ thù và những người trung tính là đồng đẳng, muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau.

 

2- Từ quan điểm của chính chúng ta mỗi một người trong họ đã từng là bạn của chúng ta trong vô số kiếp sống từ vô thì luân hồi sinh tử và chắc chắn sẽ lại giúp đở chúng ta trong tương lai; mỗi loại người ấy là trung lập một cách bình đẳng.

 

3- Vì vậy, từ bất cứ phía nào được quan tâm, chính chúng ta hay những người khác, không có điểm nào trong những nhận thức thổi phồng về thân thiết và chán ghét.  Chúng ta không nên đánh giá người này như căn bản là tốt và người nọ là xấu, mặc dù những hành vi của người ấy có thể là tốt hay xấu, hữu ích hay tai hại.  Không có lý do gì để tử tế với người này và cáu kỉnh với người nọ.  Mặc dù đúng là những cá nhân tạm thời là bạn bè hay thù địch - giúp đở hay tổn hại - thật không đúng để phân biệt bất cứ người nào với thích thú hay thù ghét.

 

Thật quan trọng để diễn tập những thiền quán phản chiếu này với những người đặc thù trong tâm và không chỉ hướng đến tất cả chúng sinh, toàn bộ thì quá lờ mờ để ảnh hưởng một sự thay đổi thật sự của thái độ.  Bằng việc làm việc trên những cá nhân, chậm rãi mở rộng cảm giác này ra ngày càng nhiều người hơn, chúng ta sẽ phát triển một cảm nhận xả buông đối với toàn thể thế giới đời sống.

 

Qua thiền quán này, cuối cùng chúng ta đi đến tại một điểm, nơi mà sự phát sinh những cảm giác mạnh mẽ của khát vọng hay thù hận xuất hiện là vô nghĩa.  Thành kiến yếu đi, và chúng ta thẩm định rằng sự phân loại con người một cách cứng nhắc như bạn bè hay kẻ thù đã là một sai lầm.

 

Giống như làm láng một bức tường trước khi vẽ lên một bức tranh hay chuẩn bị một cánh đồng trước gieo trồng, việc trau dồi một cảm nhận chân thật về tính bình đẳng cung ứng một nền tảng cho bước tiếp theo trong con đường để  yêu thương từ ái:  công nhận tất cả chúng sinh như nhữn người bạn thân thiết.  Bây giờ trau dồi tính bình đẳng sẽ phục vụ như nền tảng cho từ ái.

 

 

 

 

 

Nguyên tác: Foundation Step: Viewing Friend and Foe trích từ quyển How to Expand Love

Ẩn Tâm Lộ ngày 22/10/2011


 



[1] Những Giai Tầng của Con Đường Giác Ngộ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2021(Xem: 4993)
Nhà thiền có danh từ Tọa Xuân Phong để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp. Danh từ đó, tạm dịch là “Ngồi Giữa Gió Xuân” Mùa Xuân chẳng phải là mùa tiêu biểu cho những gì hạnh phúc nhất trong bốn mùa ư? Hạ vàng nắng cháy, vui chơi hối hả như đàn ve sầu ca hát suốt mùa để cuối mùa kiệt lực! Thu êm ả hơn, nhưng nhìn mây xám giăng ngang, lá vàng lả tả, tâm- động nào mà không bùi ngùi tưởng tới kiếp nhân sinh?
07/02/2021(Xem: 5227)
Chú mục đồng chậm rãi bước xuống sông. Bên cạnh chú, con trâu lớn nhất đàn ngoan ngoãn xuống theo. Đôi mắt hiền lành của nó nhìn chú như mỉm cười, tin tưởng và thuần phục. Những con trâu bé hơn lại nhìn bước đi vững chãi, an lạc của con trâu đầu đàn mà nối nhau, cùng thong thả qua sông. Đây là khúc sông cạn mà chú đã dọ dẫm kỹ lắm. Đáy sông lại không có những đá nhọn lởm chởm có thể làm chân trâu bị thương. Bên kia sông, qua khu rừng có những cội bồ đề râm mát là tới đồng cỏ rộng. Mùa này, sau những cơn mưa, cỏ non vươn lên xanh mướt, đàn trâu gồm bẩy con mà chú có bổn phận chăm sóc tha hồ ăn uống no nê sau những giờ cực nhọc cầy bừa ngoài đồng lúa.
07/02/2021(Xem: 8012)
Khi những cơn bảo và áp thấp nhiệt đới hung hãn nhất vừa tạm qua đi, khí trời phương Nam cũng trở buồn se lạnh. Nhiều người cho đó là hoàn lưu của những cơn bão miền Trung mà tất cả con dân “bầu bí chung dàn” vẫn còn đang hướng về chia sẻ, nhưng ít người nhận ra rằng đó chính là cái se lạnh của mùa đông phương Nam, báo hiệu mùa xuân sắp đến nơi ngưỡng cửa của bộn bề lo toan hằng năm.
06/02/2021(Xem: 6152)
Mười bức “Tranh Chăn Trâu” trong phần này là của họa sư Nhật Bản Gyokusei Jikihara Sensei, vẽ vào năm 1982 nhân một cuộc thăm viếng thiền viện Zen Mountain Monastery ở Mount Tremper, New York, (Hoa Kỳ). Họa sư vẽ để tặng thiền viện. Các bài thơ tụng thời nguyên gốc của thiền sư Quách Am viết vào thế kỷ thứ 12. Thơ tụng được chuyển dịch ở đây bởi Kazuaki Tanahashi và John Daido Loori, sau đó được nhuận sắc bởi Daido Loori để mong tạo lập ra những hình ảnh và ẩn dụ cho thêm giống với phong cảnh núi sông ở quanh thiền viện Zen Mountain Monastery. Thiền sư Daido Loori là người lãnh đạo tinh thần và là tu viện trưởng của thiền viện này.
04/02/2021(Xem: 5633)
Hôm qua mình có giới thiệu cuốn sách Buddhism in America (Phật Giáo Mỹ) của Richard Hughes Seager. Có bạn hỏi thêm muốn tìm hiểu Phật Giáo Mỹ nên nhờ mình giới thiệu vài cuốn. Nghĩ rằng đây là câu hỏi hay nên mình xin viết giới thiệu 7 cuốn sách để nhiều người lợi lạc. 1. Cuốn The Faces of Buddhism in America (Diện Mạo của Phật Giáo ở Mỹ) do Charles Prebish 2. Buddhist Faith in America (Đức Tin Phật Giáo ở Mỹ) tác giả Michael Burgan 3. Buddhism in America của Richard Huges Seager (1999, tái bản 2012) 4. Buddhism in America của Scott Mitchell 5. Altered Traits: Science Reveals How Meditation Changes Your Mind, Brain, and Body, 2017 6. A Mindful Nation: How a Simple Practice Can Help Us Reduce Stress, Improve Performance, and Recapture the American Spirit, 2012, 7: American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
01/02/2021(Xem: 4269)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 9190)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 5734)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
01/02/2021(Xem: 7048)
Phần này bàn về các danh từ gọi dụng cụ gắp cơm và đưa vào miệng (ăn cơm) như đũa hay trợ, khoái, giáp cùng các dạng âm cổ của chúng. Các chữ viết tắt khác là Nguyễn Cung Thông (NCT), Hán Việt (HV), Việt Nam (VN), TQ (Trung Quốc), ĐNA (Đông Nam Á), HT (hài thanh), TVGT (Thuyết Văn Giải Tự/khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), TV (Tập Vận/1037/1067), TNAV (Trung Nguyên Âm Vận/1324), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), TViB (Tự Vị Bổ/1666), TTTH (Tứ Thanh Thiên Hải), KH (Khang Hi/1716), VBL (tự điển Việt Bồ La/1651) ĐNQATV (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị/1895).
29/01/2021(Xem: 5744)
Ở đời không phải ai cũng chấp nhận sự chân thành của bạn. Những người quanh ta luôn công nhận việc tốt mà ta đã và đang làm, trở thành đương nhiên như thế… và đến một ngày kia bạn quá mệt mỏi liệu có ai bên cạnh bạn và cảm thông với bạn không? Vì trong suy nghĩ của họ bạn là người tự nguyện cho đi..., trong hoàn cảnh như thế liệu bạn có tiếp tục cho đi nữa hay không? Tất nhiên là có, chúng ta hãy tiếp tục sống tốt nhưng phải là người tốt thông minh. Hãy tin rằng không có nỗ lực nào là uổng phí, hãy có quan điểm và lý tưởng của chính mình, luật nhân quả luôn đền bù cho bạn xứng đáng. Nhà Phật dạy có Luân Hồi-Ngiệp Báo. Không ai phủ nhận rằng quan tâm chăm sóc người khác là tốt, nhường nhịn người khác đều là tốt, tuy nhiên quan tâm quá, họ sẽ làm khó ta vạn lần, nhiệt tình quá họ sẽ đâm ra nghi ngờ, thậm chí khiến bạn bị tổn thương …
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]