Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

05 - Tịnh hóa tâm thức

09/02/201920:12(Xem: 4575)
05 - Tịnh hóa tâm thức

TỊNH HÓA TÂM THỨC

 

   

Bản chất của tâm là ánh sáng trong suốt (Tịnh Quang)

Những nhiễm ô là bề ngoài (khách trần phiền não)

- DHARMAKIRTI

 

 

 

Có thể loại trừ những cảm xúc rắc rối một cách hoàn toàn, hay có thể chỉ có đè nén chúng mà thôi?  Theo tuệ giác căn bản của Đạo Phật, tâm một cách cốt yếu là sáng rở và tri nhận.  Do thế, những rắc rối cảm xúc không thể lưu trú trong bản chất của tâm; những thái độ chướng ngại ẩn tàng là tạm thời và nông cạn, và có thể bị loại trừ.

 

Nếu những cảm xúc tai họa như giận dữ vốn ở trong bản chất của tâm, thế thì từ lúc khởi đầu tâm sẽ luôn luôn giận dữ.  Một cách rõ ràng, điều  này không  phải như thế.  Chỉ dưới những hoàn cảnh nào đó chúng ta mới trở nên giận dữ và khi những hoàn cảnh đó không hiện hữu, giận dữ cũng không hiện diện.

 

Những hoàn cảnh nào phục vụ như căn bản cho việc phát sinh giận dữ hay thù hận?  Khi chúng ta giận dữ, đối tượng sự giận dữ của chúng ta xuất hiện dễ sợ hơn nó thật sự ở đấy.  Chúng ta đang giận dữ bởi vì người đã làm tổn hại, đang làm tổn hại, hay sẽ làm tổn hại chúng ta hay bạn bè chúng ta.  Vì vậy "cái tôi" này là gì mà đang bị làm tổn hại?

 

Trong sự phô trương của cơn thịnh nộ chúng ta cảm thấy rằng chủ thể, "cái tôi" và khách thể, kẻ thù, là cụ thể và độc lập.  Bởi vì chúng ta chấp nhận những hiện tướng này như một sự thiết lập cố hữu, nên giận dữ được phát sinh.  Tuy thế, nếu tại sự bùng nổ đầu tiên của giận dữ, chúng ta đã quen với lý trí tự hỏi mình, Tôi là ai?  Con người này là ai mà đang bị tổn thương?  Kẻ thù là gì?  Có phải kẻ thù là thân thể?  Có phải kẻ thù  là tâm? kẻ thù hiện hữu một cách cụ thể này, người trước đây dường như là được tạo nên một cách cố hữu như điều gì đấy để giận dữ, và "cái tôi" này, kẻ được tạo nên một cách cố hữu bị tổn thương, dường như biến mất.  Và sự giận dữ tan thành từng mãnh.

 

Nghĩ về điều ấy. Chúng ta giận dữ tại những gì làm thất bại những khao khát của chúng ta.  Giận dữ bị xúi bẩy bởi nhận thức sai lầm khách thể và chính chúng ta được thiết lập trong cách này (như kẻ thù và nạn nhân) trong tự chúng và của chính chúng.  Thù hận không tách rời khỏi nền tảng của tâm.  Nó là một thái độ không có nền tảng vững chắc.  Tuy nhiên, yêu thương từ ái được tìm thấy một cách có căn cứ trong chân lý.  Khi, trải qua một thời gian dài, thái độ có nền tảng vững chắc tranh đua với thái độ không có cơ sở, thì thái độ với nền tảng vững chắc sẽ lấn át thứ kia.

 

Những phẩm chất tùy thuộc trên tâm có thể được gia tăng một cách vô giới hạn, và khi chúng ta tăng cường các thái độ đối kháng với những cảm xúc buồn đau, những bộ phận tương ứng không thiện chí sẽ giảm thiểu, cuối cùng trở nên bị dập tắt hoàn toàn.  Vì tâm có bản chất tự nhiên rực rở và tri nhận, nên tất cả chúng ta có khí cụ căn bản cần thiết để đạt đến giác ngộ.

 

NHẬN DIỆN TÂM

 

Khoảng hai mươi năm trước đây, khi tôi ở Ladakh, Ấn Độ, tiến hành một loạt thiền quán, tôi có một bức tượng Đức Phật Thích Ca phía trước tôi, như vẫn là thói quen của tôi.  Lớp vàng ở trái tim bức tượng đã bong mất rồi, và vì thế ở nơi ấy lộ một màu nâu.  Khi tôi nhìn vào vùng trái tim của bức tượng, bây giờ không có màu sắc hấp dẫn nữa, nhìn vào tâm tư tôi, cuối cùng tư duy dừng lại, và trong một lúc ngắn ngủi, tôi cảm thấy tự nhiên rực rở và  tri nhận của tâm.  Rồi sau đó, khi tôi hồi tưởng lại điều này, kinh nghiệm sẽ trở lại.

 

Thật rất hữu ích trong sự thực tập hàng ngày để nhận diện bản chất tự nhiên của tâm và tập trung trên ấy.  Tuy nhiên, thật khó để nắm bắt tâm bởi vì nó ẩn tàng bên dưới những tư tưởng giàn trải của chính chúng ta.  Như một kỷ năng để nhận diện bản chất tự nhiên của tâm, đầu tiên dừng suy nghĩ về những gì đã xảy ra trong quá khứ, rồi thì dừng suy nghĩ về những gì có thể xảy ra trong tương lai, hãy để tâm tuôn chảy phù hợp với chính nó mà không có sự phủ lên của tư duy.  Hãy để tâm ngừng lại trong thể trạng tự nhiên của nó và quán xét nó trong một lúc.

 

Khi, thí dụ, quý vị nghĩ một tiếng động, giữa lúc nghe nó và nhận thức nguồn gốc của nó, chúng ta có thể cảm nhận thể trạng của tâm trống rỗng tư tưởng nhưng không phải ngủ, trong điều mà đối tượng là một sự phản chiếu của sự rực rở và tri nhận của tâm.  Tự nhiên căn bản của tâm có thể được nắm bắt tại một điểm như vậy.  Vào lúc bắt đầu, khi chúng ta không quen với sự thực tập này, thì thật là khó khăn, nhưng đúng lúc tâm sẽ xuất hiện như nước trong vắt.  Hãy cố gắng để trụ với thể trạng này của tâm mà không bị xao lãng bởi những tư tưởng nhận thức và tập cho quen thuộc với nó.

 

Thiền tập đề mục này vào buổi sáng sớm, khi tâm chúng ta đã tỉnh giấc và trong sáng, nhưng những giác quan của chúng  ta chưa hoạt dộng hoàn toàn.  Cũng lợi ích nếu không ăn quá nhiều tối đêm qua, cũng không ngủ quá nhiều: giấc ngủ của chúng ta sẽ nhẹ nhàng hơn và điều này làm cho tâm thư thái hơn cũng như sắc bén hơn vào sáng hôm sau.  Nếu ăn quá nhiều, giấc ngũ sẽ dày và nặng, gần giống như thây ma.  Trong việc tu tập hằng ngày, tôi ăn no nê vào lúc điềm tâm và buổi trưa nhưng chỉ ăn chút ít vào buổi tối - ít hơn nửa chén hạt dẻ hay bánh quy dòn; rồi tôi lên giường sớm và thức dậy lúc năm giờ ba mươi vào buổi sáng để bắt đầu thiền tập.

 

Thấy đấy nếu chú ý đến bản chất của tâm vào buổi sáng sớm tâm chúng ta sẽ tỉnh giác hơn suốt ngày.  Tư tưởng chúng ta chắc chắn sẽ tĩnh lặng hơn.  Trí nhớ của chúng ta sẽ cải thiện nếu chúng ta có thể thực tập một ít thiền quán mỗi ngày, rút lui khỏi tâm phân tán.  Tâm nhận thức quanh quẩn trong việc suy nghĩ những chuyện tốt, những chuyện xấu, v.v... sẽ được ngơi nghĩ.  Một chút không phân biệt có thể cung ứng một sự ngơi nghĩ cần thiết rất nhiều.

 

Thiền Quán

 

1- Không nghĩ về những gì đã xảy ra trong quá khứ hay những gì có thể xảy ra trong tương lai.

2-  Hãy để tâm tuôn chảy thích hợp với nó mà không suy nghĩ.

3- Quán chiếu bản chất rực rở trong sáng của tâm.

4- Trụ với kinh nghiệm này trong một lúc.

 

Chúng ta có thể thực tập những đề mục này trong khi nằm trên giường vào buổi sáng, tâm chúng ta tỉnh thức nhưng những giác quan của chúng ta chưa hoạt động hoàn toàn.

 

ĐỐI KHÁNG NHỮNG RẮC RỐI

 

Bây giờ chúng ta hãy nhìn vào những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng chẳng hạn như thèm khát, thù hận, và ganh tỵ.  Tất cả bọn chúng tùy thuộc trên sự tin tưởng sai lầm ban đầu rằng những đối tượng tồn tại như những thực thể độc lập, trái lại trong thực tế chúng không như thế.  Qua năng lực của si mê như vậy, tất cả những cảm xúc buồn khổ này sinh khởi.  Nhưng như chúng ta đã thấy, khi chúng ta phân tích thì có phải nổi si mê này và những rắc rối tháp tùng của nó là bản chất bên trong của chính bản tâm không, chúng ta thấy, như đại luận sư Ấn Độ Dharmakirti đã nói, "Bản chất của tâm là ánh sáng trong suốt, Tịnh Quang, hay linh quang.  Những nhiễm ô là bề ngoài (khách trần phiền não)."  Bản chất của thức vi tế sâu xa nhất là tinh khiết.  Giận dữ, dính mắc, v.v... thuộc ngoại biên và không tồn tại trong  căn bản của tâm.  Chúng ta gọi điều này, nền tảng bẩm sinh của tâm là ánh sáng trong suốt, Tịnh Quang, hay linh quang.  Bởi vì nó làm cho giác ngộ hiện thực, nó cũng được gọi là Phật tính.  Nó hiện hữu tại gốc rể của tất cả thức.  Cũng thế, tất cả chúng ta có một trình độ nào của bi mẫn, mặc cho những sự khác biệt trong sự phát triển và kiến thức, và tất cả chúng ta có một sự thông tuệ phân biệt giữa tốt và xấu.  Đây là tất cả những điều kiện cho giác ngộ.

 

Một khi chúng ta biết rằng những nhiễm ô không "cư trú" trong bản chất của tâm, có thể loại trừ chúng qua việc phát sinh những đối trị với chúng, những thái độ, như thuốc men, có thể chống lại chúng.   Nhưng nếu những nhiễm ô không tách rời khỏi căn bản tâm, thế thì ngay khi mà tâm thể hiện chức năng, những tư tưởng tệ  hại - giận tức, v.v... - sẽ phải hiện hữu, nhưng điều này không phải như vậy.  Ngay chính lúc này, tâm chúng ta đang đọc và suy nghĩ: giận tức chắc chắn không hiện diện.  Những thái độ như giận tức và dính mắc có thể được tách rời khỏi tâm chính yếu.

 

Vào những lúc trong đời sống chúng ta, tâm chúng ta bám chặc với giận tức và dính mắc, và vào những lúc khác là buông xả, toại nguyện, từ ái, và bi mẫn.  Chúng ta không thể cảm thấy tham dục và thù hận chính xác cùng lúc đối với cùng một đối tượng.  Chúng ta chắc chắn có thể có những cảm nhận này tại những thời điểm khác  nhau, nhưng không cùng trong một thời điểm, điều này cho thấy rằng hai thái độ này thể hiện chức năng trong sự mâu thuẩn với nhau.  Khi một trong chúng, thứ này gia tăng sức mạnh thì thứ kia giảm xuống.

 

Nhận thức vững chắc hổ trợ từ ái và bi mẫn.  Sự trình bày của chúng không cần sự giúp đở từ si mê ám chướng là thứ đã nhận định sai lầm các đối tượng như tồn tại cố hữu (có tự tính), hay trong chính chúng và tự chính chúng mà thôi.  Những thái độ phi đạo đức như thù hận và kiêu mạn - cho dù chúng mạnh mẽ như thế nào đi nữa - chỉ được sản xuất với sự hổ trợ và giúp đở của vô minh si ám.  Do vậy, không có nhận thức sai lầm này trong bản chất của con người và sự vật, thì không có cách nào tham dục và thù hận có thể triển khai.  May mắn thay, những thức đối lập với tham dục và thù hận có thể hoạt động ngay cả khi không có nhận thức sai lầm về sự tồn tại cố hữu.

 

Si mê và tuệ trí cả  hai  quán chiếu cùng những hiện tượng vạn pháp, nhưng những cung cách mà chúng nhận thức vạn pháp là hoàn toàn đối nghịch.  Tuệ trí có nền tảng vững chắc, trái lại si mê ám tối không có nền tảng có căn cứ và sai lầm với những gì nó nhận thức.  Gia tăng sức mạnh của tuệ trí làm yếu si mê.  Tuệ trí làm giảm thiểu việc lãnh hội sai lầm về bản chất con người và sự vật cho đến khi si mê biến mất.

 

VẤN NẠN Ở PHÍA BÊN TRONG

 

Những hoàn cảnh ngoại tại không phải là những gì đưa đẩy chúng ta vào khổ đau.  Khổ đau được tạo nên và cho phép bởi một cái tâm chưa thuần hóa.    Tâm bản nhiên trong sáng bị che phủ bởi những cảm xúc và nhận thức phiền toái này.  Năng lực lừa đảo của chúng đẩy chúng ta vào những hành vi sai lầm, những điều đưa đến khổ đau không tránh khỏi.  Chúng ta cần, với sự tỉnh thức và quan tâm lớn, để phân biệt những thái độ rắc rối, thì phương cách tập hợp mây mù sẽ tan biến trở lại trong không gian của bầu trời.  Khi những thái độ, các cảm xúc, và những nhận thức tự thất bại ngừng lại, những hành vi tổn hại sinh khởi từ chúng cũng chấm dứt.  Như đại hành giả du già Tây Tạng cuối thế kỷ 11 đầu thế kỷ 12 Milarepa đã nói, "Khi sinh khởi, sinh khởi tự trong không gian của chúng, khi tan biến, tan biến trở lại không gian". Chúng ta cần trở nên quen thuộc với thể trạng của tâm tư chính chúng ta để thấu hiểu những ý tưởng và những thôi thúc vô căn cứ trở lại không gian sâu thẩm của thực tại như thế nào.  Bầu trời vẫn ở đấy trước khi mây mù che phủ, và nó vẫn thế sau khi mây ám tan đi.  Nó cũng hiện diện khi mây đen dường như che kín từng phân vuông của bầu trời mà chúng ta có thể thấy.

 

Bản chất của nước không bị ô nhiễm bởi rác rưởi, bất chấp dơ bẩn như thế nào.  Cùng cách như thế, bản chất ngay cả một tâm thức rối rắm là không bị nhiễm ô bởi cấu uế.  Tâm Tịnh Quang của bất cứ chúng sinh nào cũng không bị nhiễm ô bởi những cảm xúc phiền não như thù hận.  Lần kế tiếp chúng ta cảm thấy thù hận, hãy thấy chúng ta có thể tách ra khỏi dòng chảy chính của tâm chúng ta như một người quán sát sự thù hận.  Trái lại chúng ta thường nghĩ, "tôi ghét.." giống như cảm giác của chúng ta về tự ngã và thù hận là hoàn toàn kết chặc với nhau, ở đây chúng ta đang nhìn sự thù hận từ một khoảng cách mong manh,thấy sự sai lầm của nó, là điều chính nó tạo nên thể trạng hấp dẫn này để tĩnh lặng một cách tự nhiên.

 

Để làm điều này, trước nhất chúng ta cần phát triển một khả năng để nhìn vào tư tưởng của chúng ta, vì cho đến khi mà ý thức của chúng ta còn bị đắm trong nhận thức hóa, thật khó khăn cho tư tưởng quán sát tư tưởng.  Nhưng nếu, khi các tư tưởng sinh khởi, chúng ta có thể tách ra một chức năng quán sát để nhìn chúng, rồi thì dần dần, chúng ta sẽ phát triển một khả năng dể phát triển một năng lực của ý thức quán sát ý thức, và ngay cả tại những thời điểm của thù hận, một nhân tố từ trong tâm ấy sẽ có thể bước ra ngoài sự giận tức.  Bằng việc quen thuộc với ý thức như cả người biết và đối tượng được biết, chúng ta có thể đi đến để nhận ra những gì được gọi là "tâm bình thường", không bị ảnh hưởng bởi sự thích hay không thích, muốn hay không muốn.  Khi tâm không bị phân hóa thành nhiều chức năng khác nhau, thể trạng tự nhiên sáng rở và tri nhận có thể được nhận ra, và nếu chún ta trụ với điều này, kinh nghiệm của sự rực sáng và tri nhận sẽ gia tăng.  Vì bản chất nội tại ngay cả của thù hận là rực sáng và tri nhận, thù hận sẽ dần dần tan chảy vào trong bản chất của ý thức.

 

Chúng ta không phải dừng một cách cố ý những tư tưởng và cảm giác đa dạng bắt đầu ló dạng trong tâm; đúng hơn, không nên tiêm nhiễm trong chúng, đừng để tâm chúng ta bị đẩy vào trong chúng.  Tâm rồi thì sẽ đảm nhiệm hình thức tự nhiên của  nó, và Tịnh Quang của nó có thể được xác định.  Sau đó sự thanh tịnh căn bản của nó có thể được biết.

 

Khi chúng ta thấu hiểu rằng Tịnh Quang là bản chất tự nhiên của nội tâm chúng ta, những phẩm chất ngày càng lớn hơn và lớn hơn như sự biểu lộ từ ái hay lòng yêu thương vô chấp.  Đây  là tại sao sự chuyển hóa tinh thần không thể là kết quả của việc thực hiện những thay đổi môi trường bên ngoài của chúng ta.  Việc đạt được nhiều thứ hơn một khi chúng ta có những gì cần thiết không đưa đến sự toại nguyện.

 

Sự giải thoát đạt được bằng việc biết rằng bản chất tối hậu của chính tự tâm: nó không được ban tặng cho chúng ta bởi một người nào đấy hay điều gì khác.  Hạnh phúc đến qua việc thuần hóa tâm; không có sự thuần hóa tâm thì không có cách nào để hạnh phúc.  Bất chấp bản chất của thế gian chúng ta sẽ không khổ sở vif phiền não  hay gây ra đau khổ khi chúng ta tin cậy trong bản chất nền tảng rực sáng của tâm, Tịnh Quang của nó.

 

TÂM KIM CƯƠNG

 

Căn bản tự nhiên và sáng rở của Tịnh Quang là cội nguồn của tất cả những tâm thức - là vĩnh viễn không thể phá hủy được, không thể biến đổi được như kim cương.  Trong Đạo Phật, khía cạnh này của tâm được xem như thường trụ trong ý nghĩa sự tương tục của nó là liên tục - nó luôn luôn tồn tại và sẽ tiếp tục mãi mãi và vì thế không là điều gì đấy được bắt đầu một cách mới mẻ bởi nhân duyên (nguyên nhân và điều kiện).

 

Tâm căn bản của chúng ta thanh tịnh một cách chính yếu, tự nhiên trỗng rỗng rắc rối ngay từ bắt đầu.  Trong nó, tất cẩ mọi hiện tượng thanh tịnh và nhiễm ô xuất hiện như những sự biểu hiện tự nhiên thanh thoát của nó.  Hào quang chói lọi rực rở vô chướng ngại của tâm ngay cả được gọi là bi mẫn, bởi vì tác động của nó là những hành vi thương yêu vô chấp, phát sinh từ thực thể thanh tịnh căn bản và tự nhiên thanh thoát.

 

Tinh khiết từ lúc khởi đầu và được ban cho với sự thanh thoát tự nhiên, tâm kim cương này là căn bản của mọi phát triển tâm linh.  Ngay cả trong sự phát sinh vô số nhận thức tốt và xấu, chẳng hạn như tham dục, thù hận, và hoang mang, tâm kim cương tự nó tự do khỏi sự quấy nhiễu của những nhiễm ô này, như bầu trời trong suốt những đám mây.  Nước có thể cực kỳ dơ bẩn, tuy thế bản chất của nó vẫn trong sạch.  Tương tự như thế, bất chấp những cảm xúc phiền não nào được sinh ra như sự tạo tác thiện xảo của tâm kim cương này, và bất chấp chúng mạnh mẽ như thế nào đi nữa, căn bản của tâm tự nó duy trì không bị nhiễm ô bởi cấu uế; nó là toàn hảo mà không có bắt đầu hay kết thúc.

 

Những phẩm chất tâm linh kỳ diệu, chẳng hạn như từ ái và bi mẫn không bị ràng buộc, tất cả là sự hiện diện trong hình thức căn bản trong tâm kim cương này; sự biểu hiện của từ ái và bi mẫn chỉ bị ngăn ngừa bởi những điều kiện tạm thời mà thôi.  Trong một ý nghĩa nào đấy, chúng ta được giác ngộ ngay từ đầu, được phú cho một tâm căn bản hoàn toàn tốt đẹp.

 

ĐÁNH GIÁ HOÀN CẢNH HIỆN TẠI

 

Bằng việc được sinh ra như một con người, chúng đã tiếp nhận một hệ thống hổ trợ vật chất mà qua nó chúng ta có thể dễ dàng đạt được cả những mục tiêu nhất thời lẫn các mục tiêu sâu rộng hơn.  Bây giờ chúng ta đã đạt được hình thể đời sống thuận lợi này rất đặc biệt trong vô số hình thể sinh ra trong thế giới này, nên thật quan trọng là [để nhớ rằng] chúng ta đừng lãng phí nó.  Nếu trong hoàn cảnh này chúng ta chỉ đơn thuần thực tập để đạt được một đời sống tốt đẹp trong những đời sống tái sinh sau này cho chính chúng ta, thì chúng ta sẽ sử dụng khả năng chúng ta một cách trọn vẹn.  Hay, nếu chúng ta chỉ đơn thuần hướng đến giải thoát cho chính bản thân từ những trạng thái rối rắm của khổ đau, thì điều này cũng làm thui chột khả năng vốn có của chúng ta.  Với thân người, chúng ta phải nên làm bất cứ điều gì đấy mà chúng ta có thể đạt đến một sự phát triển tâm linh toàn hảo và trọn vẹn.

 

THIỀN QUÁN

 

1- Quán chiếu trên khả năng của tình trạng hiện tại của hành giả cho một sự tăng trưởng tâm linh: chúng ta có một thân người; những giáo huấn tâm linh thuận lợi trong môi trường; chúng ta có khả năng tinh thần để tiếp thu những giáo huấn tâm linh - chúng ta có tâm kim cương thanh tịnh thuần khiết.

 

2- Đánh giá những cơ hội hiện tại cho sự thực tập tâm linh.

 

3- Thiết lập động cơ của chúng ta, một nguyện ước để hổ trợ không chỉ chính chúng ta mà tất cả chúng sinh.

 

4- Hướng đến giúp đở người khác.

 

 

 

Nguyên tác: Basic Purity of the Mind trích từ quyển How to Expand Love

Ẩn Tâm Lộ ngày 10/10/2011

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/12/2016(Xem: 6970)
Thưa bà, lâu nay ít thấy bà “xuất hiện” trên mặt báo, phải chăng bà đang có dự án mới? Tạ Thị Ngọc Thảo (TTNT): Đúng, hơn nửa năm nay tôi ít “xuất hiện” trên mặt báo là vì những đề tài tôi quan tâm, nghiên cứu và viết ra đã gởi thẳng đến “địa chỉ” nơi nhận. Và tôi cũng nhận được phản hồi tích cực, vì nơi gởi và nơi nhận cùng trăn trở một mối lo “sau khi du lịch biển và đánh bắt không còn là thế mạnh thì làm sao để chuyển đổi ngành nghề cho bà con các tỉnh miền Trung”? Rồi hai bên cùng bàn cách “làm như thế nào!”. Chúng ta đều biết, có những việc nhờ báo chí đưa duyên, nhưng có những việc làm trước nói sau; cho chắc (cười).
09/12/2016(Xem: 7148)
Các thiền sư Phật giáo luôn nhắc nhở các đệ tử không được phát khởi vọng niệm ham muốn (tham), cho dù đó là “ham muốn được thành Phật”; không được phát khởi vọng niệm sân hận, cho dù đó là “sân hận người đã giết cha của mình”; không được phát khởi vọng niệm si mê (si), tin tưởng một cách mù quáng, cho dù đó là “tin tưởng vị thầy của mình”. Thamsân-si là ba chất độc gây đau khổ cho bản thân của chính mình và cho người khác. Trong cuộc sống hàng ngày, người Phật tử cũng còn phải thực tập để làm ngược trở lại những tiến trình của “tham-sân-si”. Thí dụ: Muốn tránh tánh tham lam (lấy vào), thì phải thực tập bố thí (cho ra); Muốn tránh “thù hận”, thì phải thực tập “hiểu và thương” bằng việc làm từ thiện; muốn tránh “si mê”, thì phải thực tập hơi thở chánh niệm, ý thức về lời nó
09/12/2016(Xem: 6785)
"Hoằng pháp thị gia vụ" đó là câu nằm lòng cho những trưởng tử Như Lai, khi bước chân vào đời. Mọi việc qua bốn oai nghi đều mang trọng trách: "Tác Như Lai sứ". Và khi hành động bất cứ việc gì cũng đều là việc Phật: "Hành Như Lai sự". Qua 35 năm thành hình một tổ chức Phật giáo thống nhất ba miền với các hệ phái, Phật sự từ đó cũng được đáp ứng tùy từng giai đoạn. Mỗi hệ phái, tông phong cũng được duy trì và phát triển chung với sự phát triển của Giáo Hội.
03/12/2016(Xem: 5560)
Cộng đồng Phật giáo chỉ là một nhóm thiểu số tại Cuba. Dù vậy, họ vẫn đang có những bước đi lặng lẽ thơ mộng và trang nghiêmtại đảo quốc xinh đẹp này. Và cũng kỳ lạ, Omar Perez, một nhà thơ và là một nhạc sĩ nổi tiếng ở Cuba – con trai của lãnh tụ du kích Che Guevara – đã trở thành một tu sĩ Thiền Tông.
03/12/2016(Xem: 6113)
Một năm lại sắp trôi qua với những vết tích điêu tàn, khổ nạn để lại trên khắp trái đất. Nhìn lại, chúng ta không khỏi giật mình, và chạnh lòng thương tưởng những nạn nhân từ các thảm họa của thiên nhiên, hoặc của con người gây nên. Có ai đã được gì sau chiến tranh và thiên tai? Có ai được hả hê sung sướng trên những bệnh tật, đói lạnh, xác người chết cứng, và nước mắt khổ đau của những kẻ sống còn sau một cơn hồng thủy, động đất, giông bão… hay sau một vụ oanh kích, nổ bom tự sát…?
09/11/2016(Xem: 10590)
Bài viết này [“Biểu nhất lảm Tam Tạng Kinh Điển Phật giáo” (An Overview of the Buddhist Tripataka)] nhằm cung cấp một cái nhìn duyệt qua kho tàng Kinh điển Phật giáo từ ngày Đức Phật Thích-ca Mâu-ni [khoảng 560 – 480 trước Công Nguyên (tr. CN)] còn tại thế cho đến ngày nay. Đạo Phật đã có một lịch sử trên 2.500 năm.
06/11/2016(Xem: 6886)
Lần nọ của nawm xưa, chúng tôi tham gia 1 khóa tu tại Packchong, Thái Lan. Theo quy định của bất cứ khóa tu nào, nam ở riêng và nữ ở riêng, bất kể là vợ chồng hay mẹ con. Tôi ở cùng 1 người đàn ông phương tây trong 1 căn phòng cho khoảng hơn chục Phật tử. Người đàn ông này khá ít nói, rất nhẹ nhàng, tham gia nghiêm túc các thời khóa.
05/11/2016(Xem: 8758)
Chúng ta đều biết, giáo dục là công trình quan trọng hàng đầu cho mọi nền phát triển của xã hội văn minh. Giáo dục xây dựng tính nhân văn cho một quốc gia và làm thành nhân cách sống con người cao quý, thiện lành, đẹp đẽ và hạnh phúc cho từng cá nhân trên hành tinh này. Đạo phật đã có một bề dầy 26 thế kỷ của công trình giáo dục,
05/11/2016(Xem: 8027)
Hồi còn nhỏ, còn trẻ tôi ít khi nghe đến từ ly dị, cả một cái làng Trại Mộ, cả một xóm Cỏ May (nơi tôi sinh trưởng và lớn lên) không hề nghe đến cặp vợ chồng nào ly dị. Thỉnh thoảng vợ chồng các chị gái có lục đục kình cãi thì mẹ tôi khuyên:"Vợ chồng cũng giống như chén bát trong sóng, khi đụng đến thì phải khua thôi, tụi con mỗi đứa nhịn nhau một chút thì sẽ yên cửa yên nhà". Mẹ khuyên chừng đó thôi, anh chị nghe theo và gia đình không còn xào xáo nữa.
03/11/2016(Xem: 14662)
Chấp ngã là từ nhà Phật. Chữ Ngã, từ Hán我 thuộc bộ qua戈. Qua戈có nghĩa là cái mác; dụng cụ của người lính lúc xưa. Ngã 我 gồm chữ qua戈 bên phải và chữ thiên bên trái 千. Ta là tất cả, trong ta luôn có nghìn con dao, cái mác. Cái ngã là ghê vậy đó. Chiến tranh thù hận cũng vì cái ngã.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]