Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

02 - Lời nói đầu

09/02/201920:10(Xem: 4901)
02 - Lời nói đầu

LỜI NÓI ĐẦU

 

Tôi đã gặp vị thầy đầu tiên của tôi về Phật Giáo Tây Tạng gần cuối năm 1962 ở New Jesey.  Một người Kalmykia[1] từ Astrakhan, nơi mà dòng Volga đổ vào biển Caspian, Geshe Wangyal, giống như nhiều tu sĩ Kalmykia, đã du hành sang Tây Tạng để vào một trường đại học Phật Giáo và ở đấy trong ba mươi lăm năm.  Đã chứng kiến sự tàn phá những học viện Phật Giáo ở Liên Bang Sô Viết, thầy đã cảm thấy - sau khi Trung Cộng xâm chiếm Tây Tạng năm 1950 - những gì sẽ xảy đến cho Tây Tạng, và vào năm 1955 thầy đã đến Ấn Độ.  Ba năm sau, thầy đã du hành bằng thuyền đến Hoa Kỳ với sự giúp đở của Hội Thánh Phụng Sự Thế Giới.

 

Gần như từ thời khắc đến Hoa Kỳ, Geshe Wangyal đã bắt đầu giảng dạy Đạo Phật Tây Tạng cho tất cả những ai tìm cầu, thành lập một tu viện và trung tâm tu học và mời bốn vị tu sĩ Tây Tạng để hợp lực với thầy vào năm 1960.  Các thầy đã dạy cho nhiều người Mỹ, kể cả tôi.  Một số này cuối cùng đã trở nên có ảnh hưởng trong những học viện, chính trị, y khoa, tôn giáo, nhà xuất bản cũng như những lĩnh vực khác.

 

Sự ra đi ồ ạt từ Tây Tạng năm 1959, khi Đức Đạt Lai Lạt Ma đào thoát đến Ấn Độ, đã đưa đến sự hình thành của những trường học Tây Tạng cho những cư sĩ và tu sĩ ở Ấn Độ, Sikkim, và Nepal, kể cả một chương trình giáo dục tu sĩ đầu tiên trong một nơi đã từng là nhà tù trong cái nóng bức của Buxaduor, Ấn Độ, một nơi với sự điều tiết khổ sở đến khí hậu và độ cao thấp so với mặt biển của một môi trường mới [đối với những người Tây Tạng vốn ở trên một cao nguyên nóc nhà thế giới].

Cuối cùng, những tu viện chính của tất cả những trường phái quan trọng của Đạo Phật Tây Tạng được tái thiết lập, mặc dù trong hình thức thu nhỏ, ở Ấn Độ và Nepal.  Trong những hoàn cảnh mới của họ, những tu viện đại học cộng đồng (college) lớn hơn đã nắm lấy cơ hội để tự cải cách, bỏ đi những khía cạnh nào đấy, chằng hạn như tổ chức tu sĩ cảnh sát, những người giữ gìn trật tự đáng sợ của Tây Tạng xưa.  Những nhóm khác đã tạo nên những  học viện tôn giáo đổi mới bên ngoài sự kiểm soát của những tu viện.  Cũng thế, sự giáo dục cư sĩ và những trình độ thứ yếu đã đi đến bao gồm những phiên bản của những chủ đề cho đến nay chỉ giới hạn trong giới tu sĩ.

 

Ở hải ngoại, những vị thầy Tây Tạng - cả tu sĩ và cư sĩ - đã tìm cách để thích nghi với những phương pháp trước đây về việc nghiên cứu học hỏi và thực hành đến một môi trường thế tục hơn.  Hiện tại bây giờ, sau sự thành công chậm rãi nhưng vững vàng trong  hàng ngàn trung tâm khắp thế giới, chúng tôi đang tiến sát gần đến việc thành lập những trung tâm nổi bật theo phong cách Tây Tạng bên ngoài cộng đồng Tây Tạng.  Sự khuếch tán đã làm cho những bộ phận rèn luyện truyền thống của Tây Tạng có từ hơn một ngàn năm lan rộng vượt xa mãnh đất nguyên thỉ của nó.  Bên ngoài Tây Tạng có một mối khao khát đối với sự vững chắc về những môn học này và việc đánh giá cao cho những kiểu mẫu cổ xưa đã được thử thách qua thời gian trong việc rèn luyện, mặc dù có những khó khăn hơn dự kiến trong việc đưa những sự học hỏi nghiên cứu như vậy hoạt động bên ngoài môi trường của Tây Tạng và Mông Cổ.

 

Người ta có thể nghĩ rằng thế giới bị vây quanh bởi những năng lực ngăn ngừa một sự phát triển chính đáng như vậy: việc gia tăng những khuynh hướng đối với sự khai thác, tham lam, và dục vọng; chủ nghĩa tiêu dùng quá khích; những ý kiến vận động liên tục là những thôi thúc điều chỉnh thô tháo; vô số khu giải trí  hiện diện khắp nơi; sự gia tăng cách biệt giữa giàu và nghèo; những giải thích đáp ứng cho các phức tạp về sự hiện hữu của con người; việc ăn uống quá mức đưa đến bệnh tật và mập phì; những vận động để đưa những quyền làm việc trở lại các trình độ thế kỷ mười chín; một sự nhấn mạnh buồn cười trên quyền lợi kinh tế, giống như điều này có thể là mục tiêu duy nhất của hơi thở.  Tuy nhiên, có những dấu hiệu rằng đây là những năng lực đen tối phát sinh một khe hở của bất mãn và một sự tự nguyện thử nghiệm những cung cách khác.

 

Nhiều người khắp thế giới có cả văn hóa địa phương và văn hóa toàn cầu, và nhiều người đã tiếp nhận những quan điểm đã sinh khởi so với sự nổi bật của nền văn hóa bản địa của họ.  Sự cởi mở này gợi lên một sự sẳn sàng cho những quan điểm mới, nhưng nó có thể biểu lộ một ý nghĩa rạn nứt của thời gian, là điều có thể đe dọa  đến một loại đắm mình trong sự thực tập Phật Giáo Tây Tạng.

 

Chính quyền  lưu vong Tây Tạng đang chuyển động  đến một biểu hiện nguyên tắc dân chủ trong việc tách rời sự kiểm soát chính trị khỏi những tổ chức tôn giáo nhưng  vẫn còn ở trong đề mục của những tư tưởng Đạo Phật.  Điều này làm song hành sự thích nghi những hệ thống giáo dục Tây Tạng, là điều đã trở thành một hổn hợp của thế tục và tôn giáo.

Người Tây Tạng sống bên ngoài quê hương Tuyết Sơn đang đấu tranh để quyết định những phương cách truyền thống nào nên duy trì - và làm việc ấy như thế  nào.  Thí dụ, đối với tất cả chúng ta đánh giá cao truyền thống y khoa lâu đời của Tây Tạng.   Sự tài tình của hàng trăm vị thầy thuốc qua hơn một ngàn năm đã đưa đến kết quả trong việc phát triển những sự chửa trị đầy năng lực của cỏ thuốc và khoáng chất.  Khi chúng ta nhìn vào những bộ phận khác của thế giới, nơi mà chủ nghĩa hiện đại đã phá hủy và thay thế những cung cách xưa cũ của đời sống, và nơi mà tuệ trí của những hệ thống y học cổ truyền đã bị đánh mất vĩnh viễn, chúng ta thấy sự quý giá của kho tàng kiến thức cổ xưa được bảo tồn trong những truyền thống riêng lẻ của Tây Tạng và Trung Hoa.

 

Những khu rừng cần được duy trì qua dự án khai thác và tái tạo để bảo tồn sự đa dạng của cây cỏ và động vật lợi ích tiềm tàng cho thế giới, nhưng nổ lực thì đầy các rắc rối của sự thay đổi và thương mãi có thể đẩy con người đến sự nghèo nàn không ngừng; người Tây Tạng cũng thế phải đối diện với sự xung đột giữa nhu cầu nuôi dưỡng con người bây giờ và sức mạnh thị trường cuối cùng sẽ để lại một kho tàng trống rỗng.  Giống như những thị trường không điều hòa không làm nên thị trường tự do, sự phát triển vô tổ chức không bảo đảm tiến trình.  Đây là những rắc rối mà toàn thế giới đang đối diện, và không có những giải pháp dễ dàng.

 

Sự cát tường tương lai của Tây Tạng tùy thuộc trên sự tự nguyện của chính quyền Trung Cộng để đặt qua một bên sự sợ hãi của họ và tiến hành những sự đối thoại chân thành với chính quyền lưu vong Tây Tạng.  Có phải sự kêu gọi của Bắc Kinh cho những sự đàm phán một chính sách mới biểu hiện sự quan tâm chân thành của họ, hay đấy chỉ là một mánh khóe khác mà thôi?  Đến hôm nay, chính quyền Bắc Kinh đã thi hành lừa dối như một sách lược trì hoản,  một thí dụ đang được đòi hỏi rằng Tây Tạng từ bỏ mục tiêu độc lập, điều này mặc dù Đức Đạt Lai Lạt Ma đã bỏ những đòi hỏi như vậy tận năm 1978.  Việc thất bại của chính quyền Trung Cộng là sự vắng bóng của từ ái và bi mẫn, là những điều được biết từ cuộc sống của chính chúng ta cuối cùng đưa đến sự tự tàn phá.

 

Khắp thế giới từ ái yêu thương phải tan biến tính không bao dung; kiến thức phải xói mòn si mê ám tối; chủ nghĩa năng động hợp tác phải thay thế sự chấp nhận thụ động và chán nản; đối thoại phải thay thế cho tố cáo lẫn nhau; công bằng đổi mới phải chiếm chỗ của trả thù; đạo đức phải  hất cẳng sự nhấn mạnh kết quả cuối cùng; sự thừa nhận những quyển lợi phổ quát phải được thay thế sự không thừa nhận.  Chỉ một nổ lực quyết tâm trải qua một thời gian dài mới có thể vượt thắng những nổ lực cố thủ của ngu xuẩn và tham lam.

 

Hy vọng của tôi rằng quyển sách này về từ ái, trong điều mà Đức Đạt Lai Lạt Ma đã vạch ra từ một truyền thống lâu dài về những kỷ năng Tây Tạng cho việc chuyển hóa tâm thức và trái tim, sẽ cống hiến đến những gì chúng ta cần thật mến thương - một ý nghĩa của từ ái và bi mẫn cho nhau.

 

Jeffrey Hopkins, Ph.D

Professor of Tibetan Studies

Univesity of Virginia

 



[1] Kalmykia:  một nước Cộng hòa tự trị thuộc Liên bang Nga, ở về  phía Tây biển Caspian.  Qua di cư, một số cộng đồng nhỏ người Kakmykia đã được thành lập ở Hoa Kỳ, Pháp, Đức, Thụy Sĩ, và Czech.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/09/2014(Xem: 7583)
Mình là tu sĩ tầm thường Xin cơm bánh trái mười phương phố, làng Có gì hãnh diện, khoe khoang? Lấy gì kênh kiệu, vênh vang với đời? Xin ăn từng vá ơn người Trú an hơi thở chẳng rời bước chân Xả ly từng niệm tham sân Thong dong y bát nẻo gần, lối xa Thuở xưa, Phật cũng vậy mà Trang nghiêm thân giáo, nhà nhà hóa duyên Cho tín tâm nở chợ triền Để không hổ thẹn phước điền nhân gian
24/09/2014(Xem: 8767)
Cụ Bà Tâm Thái, 82 tuổi phát tâm đóng chuông Đại Hồng Chung mỗi buổi khuya tại Tu Viện Quảng Đức, Melbourne, Úc Châu, nhân dịp Cụ Bà viếng thăm Úc 6 tháng từ 25-9-2014 đến 25-3-2015
21/09/2014(Xem: 6835)
Thấy người làm việc lành việc phải, mình tán thán bằng lời, hoặc góp một phần công, giúp một phần của để thành tựu công việc lành ấy. Quả là người này đã có lòng lành đáng quí đáng mến. Huống nữa, Tam Bảo là cây cầu đưa chúng sanh từ bến mê qua bờ giác, Tam Bảo là con thuyền cứu vớt chúng sanh đang chìm trong bể khổ đưa đến bờ Niết-bàn, Tam Bảo là ngọn đèn sáng soi đường cho chúng sanh khỏi lạc trong rừng tối vô minh. Người phát tâm tán trợ bồi bổ tô đắp cho Tam Bảo thường còn ở thế gian thì công đức biết bao kể xiết. Vì Tam Bảo thường còn ở thế gian, chúng ta phát tâm cúng dường, quả là việc làm tự lợi lợi tha đầy đủ.
19/09/2014(Xem: 7952)
Cái tuổi 40 thiệt khó nói là già hay trẻ. So với tuổi 80 thì đó là nửa đường, nhưng với tuổi 70 thì đã quá nửa. Vậy rồi cứ nghe se mình một tí là nghĩ ngợi lung tung. Thời nay ngoài mấy kiểu chết bất trắc, còn có chuyện dư đường, dư mỡ. Không kể bệnh nan y, chỉ cần vài năm không chịu thử máu là chuyện gì cũng có thể xảy ra.
18/09/2014(Xem: 7887)
Dì Sáu là một người đàn bà rất đáng phục. Sinh trưởng ở miền nam Việt Nam, lúc nhỏ chắc học hành cũng chẵng bao nhiêu. Sau 1975 di tản sang tây, không biết một tí tiếng Pháp nào, vậy mà lại một thân một mình sống được yên hàn từ mấy chục năm nay tại xóm La Tinh, ở ngay trung tâm thành phố Ba Lê hoa lệ.
12/09/2014(Xem: 9659)
Hương đêm lan tỏa quanh mẹ khi mẹ bước ra khỏi lan can lầu. Có mùi thơm dìu dịu của dạ lý hương từ bên dưới thoảng nhẹ và mùi sương đẫm trên những thân lá trường sinh. Từ trên đỉnh chùa núi ở phía nam thành phố, từng hồi đại hòng chung trầm ấm rền rền gióng lên, qua không gian tĩnh lặng của sáng sớm mùa hẹ, âm ba của nó như những lượn sóng trầm chảy vào thời gian và thế giới bình yên của thành phố biển. Vậy là đã ba giờ rưỡi sáng.
08/09/2014(Xem: 7493)
Người, vật, chim muông, hoa lá, cỏ cây, lâu đài, phố thị, làng mạc... đều nương tựa trên mặt đất. Cũng vậy, chúng sanh hữu tình, các bậc trí tuệ, chư thánh nhơn, đức Phật... cũng do 10 nghiệp lành mà có sắc thân, tướng mạo, y báo, chánh báo sai khác, dị đồng... Tất cả phải nương tựa nơi 10 nghiệp lành vậy. Mười nghiệp lành không những ngăn giữ chúng sanh khỏi bị đọa lạc vào bốn con đường đau khổ, mà còn mở cánh cửa thênh thang hạnh phúc an vui của phước báu nhân thiên sang cả. Mười nghiệp lành thường quyết định duyên lành, làm cho thông minh sáng láng, học hành thành đạt, sự nghiệp hanh thông, gia đình ấm êm và cả trí tuệ thông hiểu con đường xuất ly ba cõi nữa.
08/09/2014(Xem: 9880)
Đức Phật từng dạy: “Trên đời có hai hạng người đáng quý. Thứ nhất, người chưa hề phạm tội và thứ hai là người lỡ phạm tội nhưng hết lòng sám hối, nguyện không tái phạm.” Kinh sách ghi lại nhiều bài sám với những hình thức ngắn, dài, đại cương hoặc chi tiết, để mỗi hành giả tùy căn cơ, nhu cầu và phương tiện mà phát nguyện sám hối. Ở đây, chỉ xin được chia sẻ đôi giòng, sau hai tuần lễ đại chúng đạo tràng chùa Phật Tổ hành trì, trong khóa tu sẽ liên tục một tháng, tụng lạy bộ“Từ Bi Đạo Tràng Sám Pháp Lương Hoàng Sám”
06/09/2014(Xem: 12960)
-Tâm Phật rỗng rang, không chất chứa gì cả. Tâm chúng sinh là một kho chứa khổng lồ chất đầy gánh nặng vui buồn, sướng khổ, hận thù, oan khiên nghiệt ngã của quá khứ. “ Câu thơ “ Hận tình mang xuống tuyền đài chưa tan” cho thấy dù đã chết xuống Âm Phủ rồi mà mối hận tình vẫn chưa nguôi và có thể ôm sang kiếp khác- kiếp lai sinh. Rồi thì bao ưu tư khắc khoải của hiện tại, bao lo âu, hân hoan, hoang mang lo sợ của tương lai. Tất cả đều chất chứa trong tạng thức, trong tim óc, trong tâm, trong não bộ giống như một người thấy tin tức, hình ảnh gì trên Internet hay Diễn Đàn cũng đọc rồi “download” rồi “save” vào bộ nhớ khiến một lúc nào đó máy hư, tức “tẩu hỏa nhật ma” rồi hóa điên.
06/09/2014(Xem: 12574)
Cụ bà Phúc Thái sinh năm 1923 tại Thái Bình, di cư vào nam 1935, lập gia đình và có 7 người con, hiện cụ có 16 người cháu và 6 chắc. Hiện cụ đã 91 tuổi đang tịnh dưỡng thiền tập và sống khỏe tại Santa Ana, California, Hoa Kỳ
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]