Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 14: Quả Phật

08/01/201920:43(Xem: 4541)
Chương 14: Quả Phật

CHƯƠNG 14:  QUẢ PHẬT

 

 

 

ĐỂ  QUY Y một cách chân thành trong Ba Ngôi Tôn Quý, với lòng khao khát thâm sâu đạt đến giác ngộ vô thượng nhằm để làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, chúng ta cần thấu hiểu bản chất của giác ngộ.  Chúng ta, dĩ nhiên, phải nhận ra rằng bản chất của cuộc sống trần gian là đầy khổ não.  Chúng ta biết rằng sự phù  phiếm của việc theo đuổi trong vòng sanh tử có thể dường như vô cùng cám dỗ.  Chúng ta quan tâm vì sự khổ đau mà người khác đang liên tục trải nghiệm, và chúng ta khao khát giúp họ vượt khỏi khổ não của họ.  Khi sự thực hành của chúng ta được thúc đẩy bằng nguyện vọng này, việc hướng chúng ta đạt đến giác ngộ cứu kính của Quả Phật, chúng ta ở trên con đường của Đại Thừa.

 

Thuật ngữ Đại Thừa thường được phối hợp với những hình thức Phật Giáo được truyền bá vào Tây Tạng, Trung Hoa, và Nhật Bản.  Thuật ngữ này đôi khi cũng được áp dụng đến những trướng phái Phật Giáo khác nhau.  Tuy nhiên, ở đây tôi đang sử dụng thuật ngữ Đại Thừa trong ý nghĩa của một nguyện vọng nội tại của sự thực tập cá nhân.  Động cơ tối thượng chúng ta có thể có là cung ứng tất cả chúng sanh với hạnh phúc, và nổ lực mà chúng ta có thể dấn thân là đang hổ trợ tất cả chúng sanh đạt đến hạnh phúc ấy.

 

Những hành giả Đại Thừa dâng hiến chính mình đạt đến thể trạng của một Đức Phật.  Họ hành động trong việc loại trừ si mê, phiền não, lòng vị kỷ được thúc đẩy bởi những hình thức tư tưởng cản trở họ đạt đến thể trạng giác ngộ hoàn toàn, thông suốt mọi sự cho phép họ làm lợi ích thật sự cho người khác.  Hành giả dâng hiến chính họ để tinh luyện những phẩm chất đức hạnh chẳng hạn như rộng lượng, đạo đức, và nhẫn nhục đến mức độ họ sẽ tự dâng hiến trong bất cứ phương cách cần thiết nào và sẽ chấp nhận tất cả mọi khó khăn và bất công nhằm để phục vụ người khác.  Quan trọng nhất, họ phát triển tuệ trí của họ: sự thực chứng tánh không.  Họ hành động với việc làm cho sự thực chứng  này về tánh không của sự tồn tại cố hữu (vô tự tánh) ngày càng thậm thâm hơn.  Họ phải tinh luyện tuệ giác này và phải làm sâu sắc thêm sự vi tế của tâm thức họ nhằm để được như thế.  Dĩ nhiên, thật khó khăn để diễn tả tiến trình tiến đến việc đạt được cứu kính của Quả Phật.  Cũng đủ để nói rằng khi sự thực chứng của chúng ta về tánh không của sự tồn tại cố  hữu trở nên thậm chí sâu hơn, tất cả những dấu vết của vị ngã được tiêu trừ và hành giả tiếp cận thể trạng giác ngộ trọn vẹn của Quả Phật.  Tuy nhiên, cho đến khi chính chúng ta bắt đầu tiếp cận thật sự những sự thực chứng như vậy, sự thấu hiểu của chúng ta vẫn là lý thuyết.

 

Khi những dấu vết cuối cùng của những nhận thức si mê sai lầm và những thiên hướng của chúng đã được loại trừ khỏi tâm thức hành giả, tâm tinh khiết ấy là tâm của một Đức Phật.  Hành giả đã đạt đến giác ngộ.  Giác ngộ, tuy nhiên, có một số phẩm chất khác, liên hệ trong kinh luận Phật Giáo như những thân.  Một số thân này có thân thể vật chất, những thân khác thì không.  Những thân không có hình thể vật chất kể cả thân chân thật - thanh tịnh pháp thân.  Đây là những gì mà tâm tinh khiết được biết đến.  Phẩm chất toàn tri của tâm giác ngộ, năng lực của nó nhận thức một cách liên tục tất cả mọi hiện tượng cũng như bản chất hiện hữu trống rỗng của sự tồn tại cố hữu được biết như thân tuệ trí của Đức Phật - tuệ trí thân.  Và bản chất trống rỗng của tâm toàn tri này được liên hệ như thân tự nhiên của Đức Phật - tự tánh thân.  Không thân nào trong đây (được xem như là những khía cạnh của thân chân thật) có hình thể vật chất.  Tất những thân đặc thù này được đạt đến qua phương diện "tuệ trí" của con đường tu tập.

 

Rồi thì có những biểu  hiện vật lý của giác ngộ.  Ở đây chúng ta đi vào một thế giới vô cùng khó khăn nắm bắt đối với hầu hết chúng ta.  Các biểu hiện được gọi là những hình thể của thân Đức Phật.  Thọ dụng thân của Đức Phật là một biểu hiện có thân thể vật lý nhưng không thể thấy gần như đối với tất cả chúng ta.  Thọ dụng thân có thể được nhận thức chỉ bởi những bậc thực chứng vô cùng cao độ, các vị Bồ tát những người trải nghiệm thậm thâm chân lý cứu kính được thúc đẩy bởi khát vọng mãnh liệt đạt đến Quả Phật vì lợi ích của tất cả chúng sanh.

 

Từ thọ dụng thân này vô biên ứng thân đồng thời lưu xuất.  Không như thọ dụng thân, những biểu hiện này của sự đạt đến giác ngộ trọn vẹn Phật Quả là có thể thấy được và đến gần được bởi những con người thông thường, đấy là những con người như chúng ta.  Do bởi phương tiện của những ứng thân mà các Đức Phật mới có thể hổ trợ chúng ta.  Nói cách khác, những biểu hiện này là hóa thân của những bậc giác ngộ.  Những thân này đảm đương một cách hoàn toàn và thuần khiết vì lợi ích của chúng ta.  Những thân này hình thành sự hiện hữu vào lúc hành giả đạt được giác ngộ hoàn toàn, như một kết quả của nguyện vọng từ bi của vị ấy để giúp đở người khác.  Chính là bằng phương tiện của những ứng thân vật chất này mà một Đức Phật dạy dỗ người khác phương pháp mà chính ngài nhờ đó đạt đến thể trạng giải thoát khổ não.

 

Đức Phật giúp đở chúng ta qua những ứng thân như thế nào?  Phương tiện trung gian chính mà qua đấy một Đức Phật hiển hiện hành vi giác ngộ là giáo huấn này.  Đức Phật Thích Ca bậc đã đạt đến giác ngộ dưới cội cây bồ đề 2.500 năm trước đây, là một ứng thân.

 

Một sự giải thích về những khía cạnh khác nhau về thể trạng giác ngộ của Quả Phật như vậy có thể nghe hơi giống như khoa học giả tưởng, một cách đặc biệt nếu chúng ta khám phá vô biên ứng thân của vô lượng chư Phật biểu hiện trong vô số thế giới nhằm để hổ trợ vô số chúng sanh.  Tuy nhiên, ngoại trừ sự thấu hiểu của chúng ta về Quả Phật đủ phức tạp để nắm bắt những phương diện luận lý hơn của giác ngộ, nếu không thì sự quy y Phật Bảo của chúng ta sẽ không đủ năng lực cần thiết.  Sự thực hành Đại Thừa, mà trong ấy chúng ta tự phát nguyện cung ứng hạnh phúc cho tất cả chúng sanh, là một hứa nguyện rộng lớn.  Nếu sự thấu hiểu của chúng ta về Phật Bảo là giới hạn với một nhân vật lịch sử Thích Ca Mâu Ni, chúng ta sẽ là đang tìm kiếm sự nương tựa trong một người nào đó đã chết rất lâu rồi và không còn có năng lực để hổ trợ chúng ta.  Nhằm để cho sự quy y của chúng ta là năng lực thật sự, chúng ta phải nhận thức những khía cạnh  khác nhau của thể trạng Quả Phật.

 

Chúng ta giải thích về sự tương tục bất diệt trong sự tồn tại của một Đức Phật như thế nào?  Chúng ta hãy nhìn vào tâm thức chúng ta.  Nó giống như một dòng sông - một sự tuôn chảy tương tục của sự  hiểu biết, mỗi sự tuôn chảy đưa đến một sự tuôn chảy khác của hiểu biết.  Dòng suối của những thời khắc của ý thức như vậy đi hết giờ này đến giờ khác, năm này đến năm khác, và ngay cả, phù hợp với quan điểm của Đạo Phật, từ kiếp sống này đến  kiếp sống khác.  Mặc dù thân thể chúng ta không thể đồng hành với với chúng ta một khi năng lực của sự sống cạn kiệt, nhưng những thời khắc của tâm thức tiếp tục, qua cái chết và cuối cùng đi vào kiếp sống tới, bất cứ hình thức nào mà nó có thể có.  Mỗi chúng ta sở hữu một dòng suối tâm thức như thế.  Và nó không có bắt đầu và không có kết thúc.  Không có điều gì có thể chấm dứt nó.  Trong ý nghĩa này nó không giống như những cảm xúc như sân hận hay  luyến ái, là những thứ có thể được làm cho chấm dứt bằng việc áp dụng những phương pháp đối trị.  Xa hơn nữa, bản chất thiết yếu của tâm thức được nói là tinh khiết; những nhiễm ô có thể được loại trừ, làm cho sự sự tương tục của tâm thức tinh khiết này bất diệt.  Một tâm như vậy, giải thoát khỏi mọi nhiễm ô, là thân chân thật của một Đức Phật, than tịnh Pháp thân.

 

Nếu chúng ta quán chiếu thể trạng giác ngộ trọn vẹn trong cách này, sự đánh giá của chúng ta về sự vĩ đại của Đức Phật lớn mạnh, cũng như niềm tin của chúng ta.  Khi chúng ta nhận thức những phẩm chất của một Đức Phật, nguyện vọng của chúng ta để đạt đến thể trạng này sâu sắc mãnh liệt hơn.  Chúng ta đi đến đánh  giá đúng giá trị và sự cần thiết của một bậc có thể ứng hóa những hình thể khác nhau nhằm để giúp đở vô lượng chúng sanh.  Điều này ban cho chúng ta sức mạnh và quyết tâm để đạt đến tâm giác  ngộ.

CHƯƠNG 15:  PHÁT TÂM BỒ ĐỀ

 

 

 

NGHI LỄ CHO việc phát tâm vị tha nguyện ước giác ngộ là một nghi thức đơn giản.   Mục tiêu của nó là để khẳng định và ổn định nguyện vọng đạt đến Quả Phật của chúng ta vì lợi ích của tất cả chúng sanh.  Sự khẳng định này là thiết yếu cho việc làm nổi bật sự thực hành bi mẫn.

 

Chúng ta bắt đầu nghi lễ này bằng việc quán tưởng một hình tượng của Đức Phật.  Một khi việc quán tưởng là phân minh, chúng ta cố gắng để tưởng tượng rằng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thật sự hiện diện trước mặt chúng ta.  Chúng ta tưởng tượng rằng Ngài được vây quanh bởi những đại sư Ấn Độ trong quá khứ, Long Thọ, người thiết lập trường phái triết lý Trung Quán và sự diễn giải vi diệu nhất về tánh không, và Vô Trước, đạo sư truyền thừa chính của phương diện "phương pháp" bao la của sự thực tập của chúng ta, là ở trong những đại sư ấy.  Chúng ta cũng tưởng tượng Đức Phật được vây quanh bởi những đạo sư của bốn trường phái Phật Giáo Tây Tạng: Sakya, Gelugpa, Nyingma, và Kagyu.  Sau đó chúng ta tưởng tượng chính mình được vây quanh bởi tất cả chúng sanh.  Diễn đàn bây giờ được thiết lập cho việc phát tâm vị tha nguyện ước giác ngộ.  Các hành giả của những tín ngưỡng khác có thể tham dự trong nghi lễ đơn giản bằng việc trau dồi một thái độ nhiệt tâm, vị tha đối với tất cả chúng sanh.

 

 

BẢY ĐIỀU QUÁN NGUYỆN THỰC HÀNH<![if !supportFootnotes]>[1]<![endif]>

 

Nghi lễ bắt đầu với một nghi thức mà trong ấy công đức được tích tập và phiền não được tiêu trừ.  Chúng ta tiến hành nghi thức này bằng việc phán chiếu trên những điểm thiết yếu của Bảy Điều Quán Nguyện.

 

 

ĐIỀU THỰC HÀNH THỨ NHẤT

Tôn Kính

 

Trong điều thực hành thứ nhất, chúng ta dâng lòng tôn kính với Đức Phật bằng việc quán chiếu trong những phẩm chất của giác ngộ của thân, miệng, và tâm của Ngài.  Chúng ta có thể chứng tỏ lòng thành tín và dâng hiến bằng việc lễ lạy trước khi quán tưởng hình tượng của Đức Phật.  Bằng việc tỏ lòng quy kính từ trái tim, chúng ta cũng tỏ lòng tôn kính những phẩm chất Phật trong chính chúng ta. (Nhất giả lễ kính chư Phật- Nhị giả xưng tán Như Lai)

 

 

 

ĐIỀU THỰC HÀNH THỨ HAI

Cúng Dường

 

 

Điều thực hành thứ hai là cúng dường.  Chúng ta có thể thực hiện việc cúng dường vật chất hay đơn giản tưởng tượng chúng ta đang cúng dường những sở hữu quý giá đến chúng hội mà chúng ta đang quán tưởng phía trước chúng ta.  Việc cúng dường sâu sắc và đầy đủ ý nghĩa nhất của chúng ta là sự thực hành tâm linh chuyên cần của chúng ta.  Tất cả những phẩm chất tốt đẹp mà chúng ta đã tích tập là kết quả của việc tiến hành trong những hành vi đức hạnh.  Những hành vi bi mẫn, hành vi ân cần, ngay cả một nụ cười mĩm vào người nào đấy hay tỏ lòng quan tâm cho người nào đấy đang đau đớn, tất cả là những hành vi đức hạnh.  Chúng ta cúng dường những điều này trong bất cứ thí dụ nào của lời nói đức hạnh.  Những thí dụ có thể bao gồm những lời khen ngợi, chúc tụng mà chúng ta đã nói với người khác, việc tái cam đoan, những lời êm dịu hay an ủi - tất cả những hành vi tích cực được tiến hành qua lời nói.  Chúng ta cũng cúng dường những hành vi tinh thần của đạo đức.  Việc trau dồi lòng vị tha, cảm nhận về ân cần săn sóc, lòng bi mẫn của chúng ta. Và lòng tin tưởng sâu xa cũng như sự dâng hiến giáo nghĩa Phật Đà của chúng ta là ở trong những sự cúng dường này.  Tất cả những điều này là những hành vi đức hạnh tinh thần.  Chúng ta có thể quán tưởng tất cả những thứ này trong hình thức của những đối tượng tuyệt đẹp và quý giá phong phú mà chúng ta cúng dường đến Đức Phật và hội chúng được quán tưởng phía trước chúng ta.  Chúng ta có thể cúng dường bằng tinh thần đến toàn thể pháp giới, vũ trụ, môi trường của chúng ta với những khu rừng, đồi núi, đồng cỏ, và những cánh đồng bông hoa. Bất kể chúng có thuộc sở hữu của chúng ta hay không, chúng ta có thể cúng dường một cách tinh thần. (Tam giả quảng tu cúng dường)

 

 

ĐIỀU THỰC HÀNH THỨ BA

Sám Hối

 

Điều thực hành thứ ba là sám hối.  Yếu tố then chốt của sám hối là việc đang nhận thức về những hành vi tiêu cực của chúng ta, những việc làm sai lầm mà chúng ta đã từng dấn thân vào.  Chúng ta nên trau dồi một cảm nhận hối lỗi sâu xa và rồi hình thành một quyết tâm mạnh mẽ không theo đuổi trong những thái độ phi đạo đức như thế trong tương lai.  (Tứ giả sám hối nghiệp chướng)

 

 

ĐIỀU THỰC HÀNH THỨ TƯ

Tùy Hỉ

 

Điều thực hành thứ tư là việc tập tùy hỉ.  Bằng việc tập trung trên những hành vi đức hạnh quá khứ, chúng ta phát triển một niềm hoan hỉ lớn trong việc hoàn thành của chúng ta.  Chúng ta phải bảo đảm rằng chúng ta không bao giờ hối hận bất cứ hành vi tích cực nào mà chúng ta đã làm mà đúng hơn là chúng ta tìm thấy niềm hoan hỉ  với việc thực hành những việc làm tốt đẹp ấy.  Thậm chí quan trọng hơn, chúng ta nên tùy hỉ trong những hành vi tích cực với người khác, những chúng sanh thấp kém hơn chúng  ta, yếu đuối hơn chung ta, cao siêu hơn chúng ta, hay mạnh mẽ hơn chúng ta hay ngang bằng với chúng ta.  Thật quan trọng để bảo đảm rằng thái độ của chúng ta đối với những đức hạnh của người khác không bị làm mờ đi bởi sự ganh đua hay ghen tỵ; chúng ta phải cảm thấy một sự ngưỡng mộ thuần khiết và hoan hỉ đối với những phẩm chất và sự hoàn thành của họ. (Ngũ giả tùy  hỉ công đức)

 

 

ĐIỀU THỰC HÀNH THỨ NĂM và THỨ SÁU

Khuyến Thỉnh và Cầu Xin

 

Trong hai điều thực hành tiếp theo chúng ta thỉnh cầu chư Phật giảng dạy hay chuyển bánh xe  pháp vì lợi ích của tất cả chúng sanh, sau đó cầu xin các Ngài đừng tìm cầu an lạc niết bàn cho riêng các Ngài mà thôi.

 

 

ĐIỀU THỰC HÀNH THỨ BẢY

Hồi Hướng

 

Điều thực hành thứ bảy và cuối cùng là điều quán nguyện hồi hướng.  Tất cả những công đức và năng lực tích cực chúng ta đã tạo được từ tất cả những điều thực hành trước và những việc làm đức hạnh được hồi hướng đến mục tiêu cứu kính tâm linh: việc đạt đến Quả Phật.

 

 

Đã thực hiện những thực tập chuẩn bị của Bảy Điều Quán Nguyện, chúng ta bây giờ đã sẳn sàng để phát sinh thật sự tâm vị tha nguyện ước giác ngộ.  Bài kệ đầu tiên của buổi lễ bắt đầu với sự hiện diện của động cơ thích đáng:

 

Với nguyện ước giải thoát tất cả chúng sanh

 

Câu thứ hai và thứ ba xác định những đối tượng của quy y: Phật Bảo, Pháp Bảo, và Tăng Bảo.  Thời điểm của chí nguyện cho việc tìm cẩu sự quy y này cũng được thiết lập trong những dòng này:

 

Con sẽ luôn luôn quy y với
Phật Bảo, Pháp Bảo, và Tăng Bảo.

 

Bài kệ thứ hai là sự phát sinh tâm vị tha nguyện ước giác ngộ.

 

Được làm cho nhiệt tình bởi tuệ trí và từ bi

Hôm nay với sự hiện diện của chư Phật

Con phát tâm nguyện ước tỉnh thức hoàn toàn

Vì lợi ích của tất cả chúng sanh.

 

Bài kệ này nhấn mạnh tầm quan trọng của tuệ trí và từ bi hợp nhất.  Giác ngộ không là từ bi không tuệ trí hay tuệ trí tách rời từ bi.  Đấy là một đặc thù của tuệ trí thực chứng tánh không được liên hệ ở đây.  Có một sự thực chứng trực tiếp về tánh không, hay ngay cả một nhận thức hay sự thấu hiểu thông tuệ về nó, điều ấy biểu thị khả năng cho một sự chấm dứt sự hiện hữu bất giác của chúng ta.  Khi tuệ trí như vậy làm đầy đủ lòng từ bi của chúng ta, phẩm chất tiếp theo của từ bi là mạnh mẽ  hơn bao giờ hết.  Chữ 'được làm cho nhiệt tình' (enthused) trong câu kệ này biểu thị một lòng từ bi dấn thân và vô cùng năng động, không chỉ là một thể trạng của tâm thức.

 

Câu tiếp theo,

 

Hôm nay trong sự hiện diện của chư Phật

 

Biểu thị rằng chúng ta đang ngưỡng mộ để đạt được thể trạng thật sự của một Đức Phật.  Nó cũng có thể biết được với ý nghĩa là chúng ta đang kêu gọi sự chú ý của tất cả chư Phật để chứng minh cho sự kiện này, như chúng ta tuyên bố.

 

Con phát tâm nguyện ước tỉnh thức hoàn toàn

Vì lợi ích của tất cả chúng sanh.

 

Bài kệ cuối cùng, từ tác  phẩm Hướng Dẫn Lối Sống Bồ tát của Tôn Giả Tịch Thiên ở Ấn Độ từ thế kỷ thứ 8, được biết là:

 

Cho đến khi không gian còn tồn tại,

Cho đến khi chúng sanh còn hiện hữu,

Cho đến lúc ấy, con nguyện cũng hiện diện

Và xua tan khổ não của trần gian.

 

Những dòng này biểu lộ một tình cảm mãnh liệt.  Một vị Bồ tát phải tự xem mình như vật sở hữu của tất cả chúng sanh.  Giống như một hiện tượng trong thế giới tự nhiên hiện hữu ở đấy để người khác thụ hưởng và sử dụng, vì vậy sự hiện hữu và tồn tại của chính chúng ta sẳn sàng cho tất cả chúng sanh.  Chỉ một lần chúng ta bắt đầu nghĩ trong những dạng thức như vậy là chúng ta có thể phát triển một tư tưởng đầy năng lực "Con sẽ dâng hiến toàn bộ sự hiện hữu của con vì lợi ích của người khác.  Con tồn tại chỉ để phục vụ cho chúng sanh".  Những quan điểm năng động như vậy tự hướng vào những hành vi làm lợi ích cho chúng sanh, và trong tiến trình cho những nhu cầu của chính chúng ta được đầy đủ.  Bằng trái lại, nếu chúng ta sống trong toàn bộ cuộc sống bị thúc đẩy bởi lòng vị kỷ, chúng ta cuối cùng sẽ không thể đạt được những khát vọng vị kỷ của chính chúng ta, sẽ tệ hơn nhiều so với sự cát tường của kẻ khác.

 

Chính Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Đức Phật lịch sử, bậc chúng ta tôn kính, nếu đã duy trì một đời sống vị kỷ như chúng ta, bây giờ chúng ta cũng sẽ đối xử với Ngài như những người thông thường khác, và nói rằng, "Ông hãy im lặng.  Ông hãy câm mồm lại".  Nhưng không phải như vậy.  Bởi vì Đức Phật Thích Ca đã chọn bỏ rơi những cung cách vị kỷ và yêu mến người khác, chúng ta xem Ngài như một đối tượng của sự tôn kính.

 

Đức Phật Thích Ca, những đạo sư rực sáng của Ấn Độ như Long Thọ và Vô Trước, và những đạo sư tột bậc của Tây Tạng trong quá khứ tất cả đều đã đạt được thể trạng giác ngộ của các ngài như một kết quả của sự thay đổi hoàn toàn nền tảng trong thái độ đối với chính các ngài và những người khác.  Các ngài đã tìm cầu sự nương tựa.  Các ngài đã ôm ấp sự cát tường của các chúng sanh khác.  Các ngài đã đi đến thấy rằng sự luyến ái và chấp trước chính mình vào tự ngã như kẻ thù sanh đôi và cội nguồn sanh đôi vô đạo đức.  Các ngài đã chiến đấu với hai năng lực này, và đã loại trừ chúng.  Như một kết quả của sự thực tập, những chúng sanh vĩ đại này bây giờ đã trở thành những đối tượng cho sự ngưỡng mộ và noi gương của chúng ta.  Chúng ta phải noi theo gương của các ngài và hành động để thấy sự tự luyến ái và chấp trước vào tự ngã như kẻ thù để loại trừ.

 

Do vậy, trong khi đem những tư tưởng này đến tâm thức và quán chiếu chúng, chúng ta đọc theo ba bài kệ tiếp theo ba lần:

 

Với nguyện ước giải thoát tất cả chúng sanh

Con luôn luôn quy y

Với Phật Bảo, Pháp Bảo, và Tăng Bảo

Cho đến khi con đạt được sự giác ngộ hoàn toàn.

 

Được làm cho nhiệt tình bởi tuệ trí và từ bi

Hôm nay với sự hiện diện của chư Phật

Con phát tâm nguyện ước tỉnh thức hoàn toàn

Vì lợi ích của tất cả chúng sanh.

 

Cho đến khi không gian còn tồn tại,

Cho đến khi chúng sanh còn hiện hữu,

Cho đến lúc ấy, con nguyện cũng hiện diện

Và xua tan khổ não của trần gian.

 

Điều này hợp thành nghi thức phát tâm vị tha nguyện ước giác ngộ.  Chúng ta phải cố gắng quán chiếu ý nghĩa của những dòng kệ này, hay bất cứ khi nào chúng ta thấy có thời gian.  Tôi đã làm điều này và thấy nó rất quan trọng cho việc thực hành của tôi.

 

Chân thành cảm ơn.

 

Wednesday, October 31, 2012 / 11:40:47 AM


 

<![if !supportFootnotes]>

<![endif]>

<![if !supportFootnotes]>[1]<![endif]> Bảy điều quán nguyện tương tự như Mười nguyện Phổ Hiền nhưng tóm thâu lại.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/05/2020(Xem: 7444)
Người Phật tử tu hạnh Bồ Tát ngoài mười điều thiện, phải tu tập pháp “Lục Độ Ba La Mật”. Lục là sáu. Độ là vượt qua. Ba la mật nguyên âm tiếng Phạn là Paramita, người Trung hoa dịch nghĩa là “bỉ ngạn đáo”, nói theo tiếng Việt là “đến bờ bên kia”. Đây là sáu món tu tập có công năng như một chiếc thuyền, đưa mình từ bờ bên này, bờ vô minh của thế gian, vượt sang bờ bên kia, bờ giác ngộ của chư Phật. Kẻ tu hành muốn đến bờ giải thoát hoàn toàn, cần phải tu cả phước lẫn tuệ. Tu phước gồm có: “bố thí, trì giới, tinh tấn và nhẫn nhục”. Tu tuệ là “thiền định và trí tuệ”.
26/05/2020(Xem: 7041)
Nhà lãnh đạo tinh thần nhân dân Tây Tạng, cùng hòa điệu với các nhà khoa học nổi tiếng trong một bộ phim tài liệu với chủ đề tuyệt diệu đầy quyến rũ.
26/05/2020(Xem: 7943)
Nước ta ở vào địa thế phía Đông là biển cả bao la, phía Tây là dãy Trường Sơn trùng điệp, còn phương Bắc thì tiếp giáp với Trung Hoa, một quốc gia rộng lớn, hùng mạnh đã biết bao phen xâm chiếm nước ta, vì vậy dân tộc ta không còn sự chọn lựa nào khác hơn là phải nỗ lực tiến về Nam để tồn tại và phát triển. Trong các đợt mang gươm đi mở cõi, tộc Phạm có nhiều vị tướng tài giỏi, những nhà cai trị lỗi lạc đã giúp các vương triều hoàn thành sứ mạng lịch sử vĩ đại này.
26/05/2020(Xem: 9551)
Đàn chim bay ngang phố. Xao xác tiếng cánh vỗ. Con quạ già trên nhánh cây hè phố ngước nhìn một lúc, rồi im lặng sà xuống đất, nhảy lò cò vài bước với một chân bị què, tiếp tục kiếm ăn. Phố im lạ thường. Những con đường vắng xe đã vơi mùi khói xăng từ những ngày trước. Lan tỏa đâu đây hương bạch đàn hòa lẫn với mùi nước cống vẫn ngày đêm chảy ngầm dưới lòng đất. Thỉnh thoảng có tiếng còi hụ của xe cứu thương băng ngang góc phố xa. Khách bộ hành mang khẩu trang chỉ chừa lại hai mắt ngầu đục sau gọng kiếng râm, không sao nhìn ra được vẻ đẹp tráng lệ của một bình minh tràn ngập nắng tàn xuân. Gió mai lành lạnh trong công viên thành phố. Ông già ngồi phơi nắng trên chiếc ghế gấp mang theo từ nhà. Hai vợ chồng trẻ khoác áo gió dắt chó đi bộ quanh bãi cỏ xanh. Một cơn gió mạnh thổi qua làm cho những hàng cây rùng mình buông lá úa. Giờ không phải mùa thu, cũng chưa vào hạ, mà lá vàng vẫn rơi lác đác, trông như những cánh bướm cải nhởn nhơ trong gió. Nhưng không, chỉ trong thoáng chốc, n
25/05/2020(Xem: 12454)
Trưởng lão Cư sĩ David Robert Loy (sinh năm 1947), vị học giả người Mỹ, Giáo sư, tác gia, Giáo thọ Thiền Phật giáo thuộc Tam Bảo giáo (Sanbō Kyōdan, 三寶教), truyền thống Phật giáo Nhật Bản. Trưởng lão Cư sĩ David Robert chào đời tại Panama, khu vực kênh đào, (Đại bản doanh của Bộ Tư lệnh Phương Nam của quân đội Mỹ). Thân phụ của ông trong đơn vị Hải Quân Hoa Kỳ nên gia đình được đi du lịch rất nhiều. Thuở nhỏ, ông học trường Carleton College, Minnesota, một tiểu bang vùng Trung Tây của Hoa Kỳ, và sau đó du học khoa triết học tại trường King's College London (informally King's or KCL), Vương quốc Anh.
23/05/2020(Xem: 7037)
Con người ta, kể cả Đức Phật, Bồ Tát, La Hán hay thánh tăng khi còn sống thì vẫn phải đi đây đi đó, tiếp xúc, gặp gỡ, giao tiếp với người này người kia trừ khi sống ẩn tu trong hang động, núi rừng. Trong khi tiếp xúc, gặp gỡ như thế có thể “đối cảnh sanh tâm”. Thí dụ, khi bước vào một nhà giàu, có thể thể nảy sinh lòng ham muốn. Khi thấy người ta đeo nữ trang quý giá có thể sanh tâm thèm muốn hay đua đòi. Khi gặp cô gái, anh chàng đẹp trai có thể sanh tâm yêu mến. Từ yêu mến có thể sanh tâm chiếm đoạt.
22/05/2020(Xem: 9050)
Theo báo The Australian, vào ngày thứ hai 18/5/2020 trong Hội Nghị của Hội Đồng Y tế Thế giới (WHA), Úc cùng 136 nước khác trong số 194 các nước thành viên cùng đệ trình một Bản Dự Thảo Nghị Quyết mở cuộc điều tra. Bản Dự Thảo đã không bị bất cứ quốc gia nào phủ quyết, một việc chưa từng xảy ra trong bang giao quốc tế, nó nói lên sự chính đáng để có một cuộc điều tra về nguyên nhân gây ra đại dịch, cách giải quyết của từng quốc gia và rút ra bài học tránh thảm họa cho nhân loại. So với ý tưởng ban đầu của Thủ Tướng Scott Morrision, Bản Dự Thảo có đôi chỗ thay đổi. Úc đề nghị tiến hành một cuộc điều tra hoàn toàn độc lập với Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO), còn Liên Minh Châu Âu đề nghị cuộc điều tra sẽ do WHO chịu trách nhiệm, nhưng việc đầu tiên là phải điều tra cách giải quyết đại dịch của chính cơ quan WHO. Mặc dù Chủ Tịch Trung cộng Tập Cận Bình đồng ý tiến hành cuộc điều tra, nhưng Đại sứ Trung cộng tại Úc, ông Thành Cảnh Nghiệp tuyên bố cuộc điều tra “hoàn toàn khác” với
21/05/2020(Xem: 8358)
Sáng thứ sáu, ngày 10 tháng 4 năm 2020 một phi hành đoàn gồm các phi hành gia của Hoa Kỳ và Nga từ trạm không gian quốc tế ISS đã hạ cánh xuống bãi đáp ở Kazakhstan, sau 200 ngày thi hành phi vụ. Thông thường, nhiệm vụ của họ là thám hiểm những hành tinh xa xôi, tìm hiểu những gì mà người dưới trái đất chưa được biết, chưa được thấy. Nhưng trở lại trái đất lần này, họ sửng sốt, ngạc nhiên vì dường như trái đất không còn giống như khi họ ra đi, 200 ngày trước.
21/05/2020(Xem: 6120)
Tổng Hiệp hội Tông phái Phật giáo Hàn Quốc đã tổ chức buổi họp báo hôm thứ Ba, ngày 19/5 vừa qua, nhằm công bố hủy một số sự kiện Kỷ niệm Quốc lễ Phật đản PL. 2564 và nhiễu hành xe hoa, Lantern Festival 2020, dự kiến diễn ra vào tháng 5 dương lịch này tại trung tâm thủ đô Seoul.
21/05/2020(Xem: 6021)
Những người theo đạo Phật ở Bồ đề Đạo tràng (Bodh Gaya), Ấn Độ, đã lên tiếng việc lo ngại về việc cung cấp chỗ ở tạm thời cho người Ấn Độ đang đáp bay, đến từ các khu vực trên thế giới bị đại dịch Virus corona tấn công. Hội đồng Phật giáo Quốc tế (The International Buddhist Council), cơ quan đại diện cho hơn 50 cơ sở tự viện Phật giáo tại Bồ đề Đạo tràng và khu vực lân cận, đã đưa ra một tuyên bố yêu cầu đề xuất các địa điểm kiểm dịch, trong đó bao gồm các cơ sở tự viện Phật giáo, không được sử dụng và người Ấn Độ trở về từ nước ngoài.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]