Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 11: Nhất Tâm Bất Loạn

08/01/201920:37(Xem: 4575)
Chương 11: Nhất Tâm Bất Loạn

CHƯƠNG 11:  NHẤT TÂM BẤT LOẠN

 

 

Tuesday, October 23, 2012

 

Nhất tâm bất loạn hay tịch tĩnh bất động, là một hình thức hành thiền qua đấy ta chọn một đối tượng và tập trung vào đấy.  Mức độ tập trung này không phải được đạt đến trong một lần ngồi thiền!  Ta phải rèn luyện tâm thức bằng những mức độ.  Một cách chậm chạp, chúng ta thấy rằng tâm thức có thể có một sự tập trung chú tâm lớn dần lên.  Nhất tâm bất loạn là một thể trạng kiên định mà trong ấy tâm thức chúng ta có thể duy trì tập trung trên một đối tượng tinh thần lâu như chúng ta mong ước, với một sự tĩnh lặng tự do khỏi mọi xao lãng.

 

Trong sự thực tập hành thiền này, cũng như đối với tất cả những thứ khác, động cơ một lần nữa là quan trọng bậc nhất.  Kỷ năng thiện nghệ được liên hệ trong việc tập trung trên một đối tượng duy nhất có thể được sử dụng đến nhiều kết cuộc đa dạng.  Đấy là một sự tinh thông kỷ năng thuần nhất, và biểu hiện của nó được quyết định bởi động cơ của chúng ta.  Một cách tự nhiên, như những hành giả tâm linh, chúng ta bị hấp dẫn bởi một động cơ đức hạnh và một kết cuộc đạo đức.  Bây giờ chúng ta hãy phân tích những khía cạnh kỷ năng của sự thực tập này.

 

Nhất tâm bất loạn được thực tập bởi những thành viên của nhiều tín ngưỡng.  Một thiền giả bắt đầu tiến trình rèn luyện tâm thức bằng việc chọn một đối tượng hành thiền.  Một hành giả Ki Tô Giáo có thể chọn thánh giá hay Thánh Mẫu Maria như điểm duy nhất của việc hành thiền.  Có thể khó hơn cho một hành giả Hồi Giáo bởi vì việc thiếu vắng một hình tượng trong Hồi Giáo, mặc dù hành giả có thể đặt niềm tin của mình vào Thánh Allah, vì đối tượng của thiền tập không nhất thiết là một đối tượng vật lý hay ngay cả là một đối tượng của thị giác.  Do thế, chúng ta có thể duy trì sự tập trung của mình trên một niềm tin sâu sắc trong Thượng Đế.  Chúng ta cũng có thể tập trung vào thành phố thánh địa Mecca.  Kinh luận Phật Giáo thường sử dụng hình tượng của Đức Phật Thích Ca như một điển hình của một đối tượng cho sự tập trung.  Một trong những lợi ích của điều này là nó cho phép sự tĩnh thức về những phẩm chất của Đức Phật tăng trưởng, cùng với lòng cảm kích về sự ân cần của Ngài.  Kết quả là một cảm nhận lớn hơn về sự gần gũi với Đức Phật.

 

Hình tượng của Đức Phật mà chúng ta tập trung trong sự hành thiền này không nên là một bức ảnh hay một hình tượng.  Mặc dù chúng ta có thể sử dụng một hình tượng vật chất để làm quen thuộc chính mình với với những đường nét và sự cân xứng của Đức Phật, nhưng đây là một hình tượng tinh thần của Đức Phật mà chúng ta phải tập trung.  Sự quán tưởng Đức Phật phải được gợi lên từ trong tâm thức chúng ta.  Một khi đã được như thế, tiến trình tịch tĩnh bất động có thể bắt đầu.

 

Đức Phật mà chúng ta quán tưởng không được quá xa cũng không được gần quá hành giả.  Khoảng bốn bộ (một thước hai) trực tiếp  trước mặt hành giả, khoảng tầm chân mày, là đúng. Kích cở hình tượng chúng ta quán tưởng phải cao ba hay bốn inches (7 đến 10 tấc) hay nhỏ hơn.  Thật hữu ích để quán tưởng một hình tượng nhỏ, dường như hoàn toàn rực sáng, giống như làm bằng ánh sáng.  Việc quán tưởng một hình tượng sáng rực giúp tiêu mòn khuynh hướng tự nhiên đối với hôn trầm hay uể oải.  Mặt khác, hành giả nên cố gắng để tưởng tượng hình tượng này như hết sức nặng nề.  Nếu hình tượng Đức Phật được nhận thức có một loại sức nặng nào đó, thế thì thiên hướng đối với sự bồn chồn tinh thần có thể được ngăn chặn.

 

Bất cứ đối tượng thiền quán được chọn lựa là gì, sự tập trung nhất tâm bất động phải được có những phẩm chất của ổn định và rõ ràng.  Sự ổn định bị làm xói mòn bởi trạo cử, phẩm chất tán loạn, và xao lảng của tâm thức là một khía cạnh của dính mắc hay luyến ái.  Tâm thức dễ dàng bị xao lãng bởi những tư tưởng của các đối tượng tham luyến.  Những tư tưởng như vậy cản trở chúng ta phát triển phẩm chất ổn định, tịnh trụ cần thiết cho chúng ta an trú một cách thật sự và tĩnh lặng trên đối tượng mà ta đã chọn lựa.  Sự rõ ràng, về mặt khác, bị cản trở hơn nữa bởi giải đải tinh thần, là điều đôi khi được gọi là một phẩm chất chìm đắm của tâm thức.

 

Việc phát triển nhất tâm bất loạn đòi hỏi mà chúng ta tự dâng hiến đến tiến trình một cách hoàn toàn cho đến khi chúng ta làm chủ được nó.  Một môi trường tĩnh lặng, yên ắng, được nói là cần thiết, như đang có những người bạn hổ trợ.  Chúng ta phải đặt qua một bên những bận tâm trần tục - gia đình, thương vụ, hay những liên hệ xã hội - và dâng hiến chính mình một cách toàn bộ đến việc phát triển tập trung.  Vào lúc khởi đầu, tốt nhất là tiến hành trong nhiều thời hành thiền ngắn trong suốt cả ngày.  Khoảng mười đến hai mươi thời hành thiền giữa mười lăm và hai mươi phút mỗi lần là thích hợp.  Khi sự tập trung phát triển, chúng ta có thể mở rộng chiều dài những thời tu tập và giảm thiểu sự thường xuyên của chúng.  Hành giả nên ngồi trong một tư thế hành thiền nghi thức, với lưng thẳng đứng.  Nếu chúng ta theo đuổi sự thực hành một cách cần mẫn, thật có thể đạt đến nhất tâm bất loạn trong vòng sáu tháng.

 

Một thiền giả phải học hỏi để áp dụng những phương pháp đối trị với những chướng ngại khi chúng xảy ra.  Khi tâm thức dường như đang hưng phấn và bắt đầu lái sang một ký ức vui sướng hay nghĩa vụ thúc bách nào đó, phải nắm bắt lấy nó và trở lại tập trung trên đối tượng đã chọn lựa.  Chánh niệm, một lần nữa, là khí cụ để làm việc này.  Khi ta lần đầu tiên bắt đầu phát triển nhất tâm bất loạn, thật khó khăn để giữ tâm thức đặt trên đối tượng hơn một khoảnh khắc.  Bằng phương tiện chánh niệm chúng ta tái định  hướng tâm thức, trở lại đối tượng hết lần này đến lần khác.  Một khi tâm thức được tập trung trên đối tượng của nó, chính là với chánh niệm, tâm thức được an trụ ở đấy, mà không bị xao lãng.

 

Việc xem xét nội tâm bảo đảm rằng sự tập trung của chúng ta duy trì ổn định và rõ ràng.  Bằng phương pháp nội quán chúng ta có thể nắm bắt tâm thức khi nó trở nên trạo cử hay tán loạn, nhanh chóng đem tâm thức trở lại đối tượng trong tầm tay.  Đây là một vấn đề phổ thông cho những ai vốn đắm mê.  Việc hành thiền trở nên quá lỏng lẻo, thiếu sức mạnh.  Việc xem xét nội tâm cẩn mật có thể cho phép chúng ta nâng dậy tâm thức với những tư tưởng của bản chất hoan hỉ, do thế gia tăng sự trong sáng và nhạy bén tinh thần.

 

Khi chúng ta bắt đầu trau dồi tịch tĩnh bất động, vấn đề nhanh chóng rõ ràng rằng việc duy trì sự tập trung của chúng ta trên đối tượng chọn lựa trong một thời gian ngắn cũng là một thử thách.  Đừng chán nản.  Chúng ta thấy đây là mộ dấu hiệu tích cực bởi vì cuối cùng đã trở nên tỉnh thức với những hành vi cực độ của tâm thức.  Bằng việc kiên nhẫn trong sự thực tập và khéo léo áp dụng chánh niệm và nội quán, chúng ta trở nên có thể kéo dài thời gian của tập trung nhất tâm bất loạn, sự tập trung trên đối tượng chọn lựa, trong khi cũng duy trì sự tỉnh giác, sự sinh động và sự sáng suốt của tư tưởng.

 

Có nhiều loại đối tượng, vật chất và khái niệm, có thể được sử dụng để phát triền sự tập trung nhất tâm bất loạn.  Chúng ta có thể trau dồi tịch tĩnh bất động bằng việc lấy chính thức như sự tập trung của việc hành thiền.  Tuy nhiên, thật không dễ có một khái niệm rõ ràng về thức là gì, khi sự thấu hiểu này không thể mang đến bằng một sự diễn tả đơn thuần bằng lời nói.  Một sự thấu hiểu chân thật về bản chất của tâm thức phải đến từ kinh nghiệm.

 

Sự thấu hiểu này có thể được trau dồi như thế nào?  Trước nhất, chúng ta phải nhìn một cách kỷ lưỡng về kinh nghiệm của ta về các tư tưởng và cảm xúc.   Cung cách ý thức sinh khởi trong chúng ta, cung cách tâm thức hoạt động.  Hầu hết mọi trường hợp chúng ta trải nghiệm tâm hay thức qua sự tương tác của chúng ta với thế giới bên ngoài - ký ức của chúng ta và những phóng chiếu tương lai của chúng ta.   Chúng ta có cáu kỉnh vào buổi sáng không?  Có choáng váng vào buổi tối không? Chúng ta có bị ám ảnh bởi một mối quan hệ thất bại không?  Lo lắng về sức khỏe của con trẻ không?  Hãy đặt tất cả những thứ này qua một bên.  Bản chất thật sự của tâm là một kinh nghiệm trong sáng của sự hiểu biết, đã bị chướng ngại trong những trải nghiệm thông thường của chúng ta.  Khi hành thiền trên tâm thức, chúng ta phải cố gắng để duy trì sự tập trung trên thời khắc hiện tại.  Chúng ta  phải ngăn ngừa việc nhớ lại những trải nghiệm quá khứ gây trở ngại cho việc quán chiếu của chúng ta.  Tâm thức không nên hướng về quá khứ, cũng không bị ảnh hưởng bởi những hy vọng hay sợ hãi về tương lai.  Một khi chúng ta ngăn ngừa những tư tưởng như vậy gây trở ngại cho việc tập trung của chúng ta, những gì còn lại là khoảng cách giữa các ký ức của kinh nghiệm quá khứ và những tiên liệu cùng vọng tưởng của tương lai.  Khoảng cách này là chân không.  Chúng ta phải hành động với việc duy trì sự tập trung của chúng ta thích đáng trên chân không này.

 

Khởi đầu, kinh nghiệm của chúng ta trên khoảng cách không gian này chỉ thoáng qua.  Tuy nhiên, khi chúng ta tiếp tục thực hành, chúng ta trở nên có thể kéo dài nó ra.  Trong việc làm như thế, chúng ta quét sạch những tư tưởng làm chướng ngại sự biểu hiện bản chất thật sự của tâm.  Dần dần, sự hiểu biết thuần khiết có thể soi sáng qua.  Với việc thực hành, khoảng cách ấy có thể rộng lớn hơn và rộng lớn hơn, cho đến khi nó trở nên có thể cho chúng ta biết thức là gì.  Thật quan trọng để thấu hiểu rằng kinh nghiệm của khoảng cách tinh thần - thức trỗng rỗng tất cả những tiến trình tư tưởng - không phải là một loại tâm thức ngây ngơ không có thần.  Nó không phải là những gì chúng ta trải nghiệm trong giấc ngủ sâu không mộng mị hay khi người nào đó bị ngất xỉu.

 

Vào lúc khởi đầu việc hành thiền, hành giả phải nói với chính mình, "Tôi sẽ không cho phép tâm thức tôi bị xao lãng bởi những tư tưởng của tương lai, những tiên liệu, hy vọng, hay sợ hãi, tôi cũng không để tâm thức tôi dong ruỗi với những ký ức trong quá khứ.  Tôi sẽ duy trì sự tập trung trong khoảnh khắc hiện tại này".  Một  khi chúng ta đã trau dồi một ý chí như vậy, chúng ta lấy khoảng không gian giữa quá khứ và tương lai như một đối tượng của thiền tập và đơn giản duy trì sự tỉnh thức của chúng ta về nó, tự do khỏi bất cứ tiến tình nhận thức tư tưởng nào.

 

 

HAI TRÌNH ĐỘ CỦA TÂM THỨC

 

Bản chất tâm thức có hai trình độ.  Trình độ thứ nhất là kinh nghiệm trong sáng về sự hiểu biết vừa được diễn tả.   Trình độ thứ hai và bản chất cứu kính của tâm được trải nghiệm với việc thực chứng sự vắng mặt sự tồn tại cố hữu của tâm.   Nhằm để phát triển tập trung nhất tâm bất loạn trên bản chất cứu kính của tâm, chúng ta khởi đầu với trình độ thứ nhất của tâm - kinh nghiệm trong sáng của hiểu biết - như thiền tập trung.  Một khi sự tập trung ấy đạt được, sau đó chúng ta quán chiếu việc vắng mặt sự tồn tại cố hữu của tâm.  Những gì sau đó xuất hiện đến tâm thật sự là tánh không hay việc vắng mặt bất cứ sự tồn tại thực chất nào của tâm.

 

Đấy là bước thứ nhất.  Sau đó, chúng ta lấy tánh không này như đối tượng của sự tập trung.  Điều này rất khó khăn, và là một hình thức thử thách của việc hành thiền.  Như được nói, một hành giả với năng lực cao nhất trước hết phải trau dồi một sự thấu hiểu về tánh không và sau đó, trên căn bản của sự thấu hiểu này, hãy sử dụng chính tánh không như đối tượng của thiền quán.  Tuy nhiên, thật hữu ích để có một phẩm chất nào đó của tịch tĩnh bất động để sử dụng như một khí cụ trong việc đi đến thấu hiểu tánh không trong một trình độ sâu xa hơn.

 

Thursday, October 25, 2012 / 11:06:17 AM

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/07/2018(Xem: 8618)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát, còn gọi là Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, có khi còn gọi là Đức Phật Quan Âm, được Phật tử nhiều quốc gia Châu Á thờ phượng vì hạnh nguyện hóa hiện nhiều thân tướng để cứu độ chúng sanh. Riêng đối với Nhật Bản, nơi nhiều tông phái Tịnh Độ thịnh hành, hình tượng Đức Quan Âm hiện diện trong rất nhiều chùa, trong các tuyến hành hương, và trong văn học. Bạn chỉ cần đi vào bất kỳ ngôi chùa nào tại Nhật Bản, nhiều phần là bạn sẽ gặp tượng Đức Quan Âm, hoặc là nghìn tay nghìn mắt gọi là Senju Kannon (Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Âm), hoặc là một hóa thân của ngài là tượng Đức Chuẩn Đề 18 tay, nhưng thường gặp nhất là tượng Quan Âm Nam Hải trong bộ áo trắng. Chúng ta có thể đọc trong thơ của Basho (1644-1694) hình ảnh nhà thơ đứng nơi gác chuông Chùa Kannon (Quan Âm Tự) nhìn xuống núi, thấy mái ngói chùa trôi nổi trong các chùm mây hoa anh đào: Mái ngói Chùa Quan Âm trôi dạt xa trong mây của các chùm hoa anh đào.
27/07/2018(Xem: 6756)
Chúng tôi được Tiến sỹ Nguyễn Mạnh Hùng, Chủ tịch công ty sách Thái Hà thông báo về khóa tu tại chùa Cự Linh, tỉnh Hải Dương Thầy là khách mời của khóa tu trong buổi sáng và buổi chiều sẽ hướng dẫn thiền. Khóa tu có đến 600 bạn trẻ mà chủ yếu là học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông. Tôi là một trong số các bạn may mắn nhất của CLB yêu sách Thái Hà được đi cùng thầy Hùng. Thầy Hùng lái xe đưa chúng tôi đến một chương trình quá đặc biệt làm tôi vô cùng ấn tượng. “Khóa tu mùa hè.” Tại sao lại là mùa hè nhỉ? Câu hỏi này luôn vấn vương trong đầu tôi. Tại sao bây giờ ở rất nhiều chùa, các quý thầy, quý sư cô đều tổ chức khóa tu cho các bạn học sinh, sinh viên nhỉ? Tôi được biết, riêng thầy Hùng đã có hơn chục khóa tu mùa hè mời đến chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm của mình và hướng dẫn thiền cho các bạn tu sinh rồi. Tôi giật mình nghĩ rằng mùa hè là mùa có nhiều ánh sáng mặt trời nhất, là mùa mà bắt đầu có nhiều loại cây bắt đầu kết trái, bởi thế nó mang lại nhiều năng lượn
27/07/2018(Xem: 10102)
Người không hiểu đặt câu hỏi “Tại sao cá đã bắt lên rồi lại đem thả, như thế có giả tạo không?; “Sao không đem tiền cho người nghèo mà đi cứu mấy con cá?” Chúng tôi xin phép được giải thích rõ hơn cho hành động Phóng Sinh: Cũng có những người thiếu hiểu biết và rất tiêu cực còn chê người là ngu vì họ nghĩ nên dùng tiền mua cá để đem cho nhà mồ côi, viện dưỡng lão, trại phong cùi hay người nghèo Phi Châu thì thực tế hơn v.v. Ngư phủ đi bắt cá lên bờ để bán cho người mua về giết rồi ăn thịt chúng. Nhưng thực tế có bán và ăn hết những thuỷ sản bị bắt lên bờ không, hay là sẽ còn thừa bị chết vì bắt lên nhiều quá làm cho một phần thặng dư chúng sanh sống trong nước bị chết uổng phí và chẳng được đóng góp thân thể của chúng để nuôi cho loài người được sống hạnh phúc; Hay chúng bị thúi rữa rồi đem bỏ?
26/07/2018(Xem: 7377)
Sự sợ hãi là tập tính của con người khi mà những gì bất lợi xảy ra thì kéo theo sự sợ hãi bị ảnh hưởng liên lụy tác động đến mình. Nhưng sợ hãi có mặt tích cực của nó trong vấn đề tu tập hành trì đạo pháp mà không phải ai cũng biết, sợ hãi là nếp tốt là đạo hạnh của sự lương thiện trong tâm hồn cao thượng. Vậy sự sợ hãi trong tu tập hành đạo như thế nào?
26/07/2018(Xem: 8249)
TUỆ TRÍ CỔ XƯA VÀ TƯ TƯỞNG HIỆN ĐẠI Nguyên tác: Ancient Wisdom and Modern Thought Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Mumbai 2011 Chuyển ngữ: Tuệ Uyển Tôi thật sự cảm thấy vinh dự lớn để nói chuyện với quý vị. Đặc biệt tại trường đại học, vì đây là trường Đại học Bombay rất nổi tiếng. Tôi luôn cảm thấy vui mừng khi gặp gở với các sinh viên. Tôi tin rằng thế hệ trẻ hơn – những người tuổi dưới 30 hay là 20 – là thế hệ thật sự của thế kỷ này, thế hệ có thể tạo nên một tình trạng mới cho thế giới này một lần nữa.
26/07/2018(Xem: 5751)
5h sáng. Sớm tinh mơ. Tôi đã thức dậy, mở toang hết cửa cổng để đón tất cả nhân duyên của ngày mới còn đang lãng vãng lân la bên ngoài vào nhà. Khu vực ngoại thành này, tầm 8h -9h vẫn còn yên tĩnh, còn nghe được tiếng chim ca, tiếng gà cục tác, huống hồ chỉ mới vào thời khắc đón ánh bình minh dịu dàng từ hướng Đông... Gian phòng thờ đã lên đèn. Ánh hào quang sau thánh tượng đức Phật rọi soi ấm áp huyền diệu. Hoa đăng, hương trầm, bánh trái đã thiết bày trên các bàn thờ theo đúng nghi lễ được Thầy hướng dẫn, căn dặn... Thầy đến trước giờ hẹn nửa giờ đồng hồ, mới 7h30, triệu thỉnh thêm thánh tượng đức Địa Tạng Vương Bồ Tát từ chùa Tịnh Quang mà Thầy trú trì, để thiết trên bàn đặt giữa chính môn. Nửa giờ sau, thêm một thầy nữa quang lâm, thầy
24/07/2018(Xem: 6428)
Sinh ra ở cõi đời này, dù được sống trong vui vẻ hạnh phúc nhiều như thế nào đi nữa, thì cũng sẽ có lúc chúng ta cảm thấy cuộc sống thật là vô vị, bởi những chuyện không vừa ý cứ dồn vập đổ tới khiến chúng ta vô cùng chán nãn. Những lúc như thế chúng ta thường hay oán Trời trách đất, hay oán hận những người xung quanh đã gây bao nhiêu điều phiền muộn đau khổ cho chúng ta. Chúng ta trách tại sao trước mắt chúng ta có những người quá hạnh phúc, không phải lo toan điều gì, mới sanh ra đời đã được ở trong cảnh giàu sang nhung lụa, lớn lên lập gia đình cũng được sống trong cảnh sung sướng, lên xe xuống ngựa, kẻ hầu người hạ. Riêng chúng ta thì đầu tắt mặt tối, cực khổ vô cùng mà cơm không đủ no, áo không đủ mặc.
22/07/2018(Xem: 8716)
Thái Lan: Các cầu thủ đội bóng Heo rừng sẽ xuất gia 12 cầu thủ đội bóng “Heo rừng” và huấn luyện viên của họ đã được cứu thoát sau khi bị mắc kẹt 18 ngày trong một hang động ở Thái Lan, có khả năng sẽ xuất gia hạn định để bày tỏ sự kính trọng đối với Saman Kunan, cựu Hải quân Thái SEAL đã hy sinh trong nhiệm vụ giải cứu đội bóng.
22/07/2018(Xem: 6858)
Người con Phật nghĩ gì về án tử hình? Đứng về phương diện cá nhân, rất minh bạch rằng không Phật tử nào ủng hộ án tử hình. Đứng về phương diện quốc gia, thực tế là rất nhiều quốc gia -- nơi Phật giáo gần như quốc giáo, như Thái Lan, Miến Điện, Sri Lanka… -- vẫn duy trì và thực hiện án tử hình. Tại Thái Lan, án tử hình dùng để trừng phạt cho 35 tội hình sự, trong đó có tội sát nhân và buôn ma túy. Miến Điện cũng thế. Điểm hay là ở chỗ, hai quốc gia này tuyên án tử hình, nhưng rất ít khi thi hành án tử. Các quốc gia có đông dân số Phật tử -- như Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Singapore, Đài Loan… -- vẫn áp dụng án tử hình, và thường xuyên thi hành án tử.
20/07/2018(Xem: 6320)
Xã hội tân tiến ngày nay, đã khiến cho con người không còn sống trong sự bình thản như ngày xưa, bởi vì nền văn minh kỹ thuật cơ khí, điện tử đã lôi cuốn người ta gia nhập và chạy đua với thời gian. Cái gì cũng phải nhanh, phải vội, cuộc sống bon chen, không ai chờ đợi ai.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]