Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

36. Nương Tựa

04/01/201909:29(Xem: 14566)
36. Nương Tựa

Nương Tựa

(giọng đọc Tăng Thanh Hà)

 

Nương tựa nhau để luôn ý thức tôn trọng và cần nhau chính là cấu trúc đẹp đẽ nhất của vũ trụ.

 

 

 

Tế bào cần cơ thể

 

Chưa bao giờ người ta cảm thấy cuộc sống đơn điệu, tẻ nhạt và lạc lõng như bây giờ. Có lẽ vì con người ngày càng đánh mất dần sự liên hệ mật thiết với những cá thể khác. Kinh tế phát triển, sự hưởng thụ tăng nhanh, đã làm cho nhiều người lầm tưởng rằng họ có thể sống an ổn vững vàng bằng chính tài năng và bản lĩnh của họ mà chẳng cần ai cả. Họ luôn giới hạn những mối quan hệ "không thực tế", không dám đặt niềm tin vào bất cứ ai vì họ cho rằng ai cũng có thể là đối thủ cạnh tranh nguy hiểm. Những người trẻ thì luôn muốn thoát ly gia đình. Họ tin rằng đó là cơ hội để tiến thân và cũng để thỏa mãn khát vọng được sống tự do mà không còn phải bị giám sát, kìm kẹp hay khiển trách. Rồi khi họ bị lôi cuốn vào sự đam mê tình cảm hay vật chất, thì ý niệm về mái ấm gia đình hay tình làng nghĩa xóm không còn đánh động nổi vào trí não họ nữa. Thậm chí, nhiều người trẻ còn dám tuyên bố rằng: "Trong từ điển của tôi không có hai tiếng làng quê", "Thoát khỏi gia đình như thoát khỏi lao ngục vậy". Và kể từ ấy họ sống như kẻ không có quê nhà.

 

Những lần họ về lại quê hương thường là những lúc họ rơi vào tình cảnh bế tắc mà không thể tự đương đầu hay giải quyết. Nhưng như thế là họ vẫn còn tin tưởng vào tình thương hay giá trị bình yên của gia đình và những người thân, trong khi nhiều bạn trẻ khác vì tự ái và sĩ diện nên không muốn công khai sự thất bại của mình. Họ thà cắn răng chịu đựng, hoặc chấp nhận buông thả vào đam mê trụy lạc để mong lãng quên tất cả, chứ nhất định không cầu viện với gia đình. Số bạn trẻ khác tuy đang sống trong gia đình nhưng lúc nào cũng chợt ẩn chợt hiện như bóng ma. Họ chẳng hề hay biết những gì đang xảy ra trong gia đình. Họ cũng chẳng cần quan tâm ai, chẳng có trách nhiệm với ai, cũng chẳng bao giờ chia sẻ những khó khăn của mình với ai. Họ có thế giới riêng của họ. Trò chơi điện tử, điện thoại và internet chính là nơi mà họ cho là thế giới phù hợp của họ. Ở nơi đó họ thấy thoải mái hơn, tự tin hơn, và thậm chí là "sống thật" hơn ngoài cuộc sống.

 

Cách đây chỉ chừng vài thập niên thôi, người ta còn sống rất gắn bó và chan hòa với nhau. Những bậc ông bà, cha mẹ luôn dành nhiều thời giờ để uốn nắn dạy dỗ con cháu mình nên người. Họ ý thức rằng con cháu chính là sự tiếp nối của mình và cũng là tương lai của xã hội. Bổn phận con cháu thì luôn luôn yêu kính và hết lòng học hỏi kinh nghiệm của những bậc đi trước, từ việc rèn luyện tác phong, lễ nghi, đến trau dồi nghệ thuật đối nhân xử thế. Gia đình chính là trường đời đầu tiên của họ. Nếu họ sống chan hòa và hạnh phúc được với những thành viên trong gia đình là họ có thể sống dễ dàng ở bất cứ nơi đâu. Chính vì được "cắm rễ" trên nền tảng tinh thần vững chắc như thế, nên sau này dù phải lập nghiệp ở phương xa thì họ vẫn luôn ý thức là mình đang sống cho gia đình, dòng họ, xóm làng và cả quê hương mình. Tuy phải đối đầu với muôn vàn khó khăn hay cám dỗ, nhưng họ luôn tự dặn lòng không được ngã xuống. Vì như thế niềm tin của tất cả những người thân cũng sẽ sụp đổ theo. Cho nên, điểm nương tựa cũng chính là nơi họ tôn thờ, giúp họ luôn có ý thức trân quý giữ gìn và cố gắng hoàn thiện bản thân cho xứng đáng.

 

Xóm làng cũng là chiếc nôi để giúp người trẻ trưởng thành. Khi họ có những khó khăn với gia đình mà không thể giãi bày, thì họ có thể chạy sang nhà chú Tư hay bác Sáu bên cạnh để trút cạn nỗi lòng. Và rồi họ cũng nhận được những lời khuyên nhủ chân tình để trở về nhường nhịn và làm lành với gia đình. Những người lớn luôn xem tất cả những người trẻ trong thôn xóm là con cháu của mình. Khi thấy người trẻ nào phạm sai lầm, họ sẵn sàng bỏ ra nhiều thời giờ, thậm chí pha một bình trà hay chuẩn bị một bữa cơm thân mật để mời chúng đến dùng rồi lựa lời nhắc nhở. Nếu sự khuyên nhủ bất thành thì họ lại chịu khó đến gặp trực tiếp người lớn trong gia đình để cùng bàn bạc và tìm cách giải quyết. Gặp khi gia cảnh nào có chuyện chẳng may, họ còn dám bỏ cả ngày làm việc để hăng hái phụ giúp. Có khi họ gác lại những buổi tiệc vui chơi riêng tư để cùng ta san sẻ khó khăn. Nhờ vậy mà con người thời ấy ít khi rơi vào trầm cảm, tâm thần hay tìm đến cái chết vì bế tắc như bây giờ. Cho nên, làm gì thì làm chứ ta không bao giờ dám để tai tiếng cho gia đình và xóm làng. Ta đã ý thức được rằng ta chính là tế bào, còn gia đình và xóm làng chính là cơ thể. Tế bào bắt buộc phải nương tựa chặt chẽ vào cơ thể. Nếu không, tế bào sẽ chết.


Đừng một mình ra khơi

 

Nương tựa là nguyên tắc bắt buộc của cuộc sống. Vì sự thật trong trời đất này không có cái gì có thể tồn tại riêng biệt cả. Nhờ lúc nào cũng có người luôn quan sát, nên ta sẽ cẩn trọng và cố gắng hoàn thiện mình hơn. Trong gia đình gọi đó là "con mắt gia đình", ngoài cộng đồng gọi đó là "con mắt cộng đồng". Con mắt ấy luôn kịp thời giúp ta phát hiện ra những vụng về yếu kém hay những khó khăn mà bản thân ta không nhìn thấy. Ngoài ra, những va chạm tuy đem tới cảm xúc hơi khó chịu ban đầu, nhưng đó là cơ hội để ta rèn luyện khả năng chịu đựng, khả năng ứng phó, hiểu thấu ngõ ngách tâm lý của mình và người khác. Huống chi, mỗi người đều có những cái hay cái đẹp, ai cũng có thể trở thành đối tượng để ta học hỏi. Nhất là được sống chung với những người từng trải, họ chính là quyển từ điển sống động mà ta vừa có thể học tập vừa thực hành theo dễ dàng. Điều quan trọng hơn nữa là nhờ sống trong tập thể mà ta luôn có cảm hứng phấn đấu, vì thói quen tùy hứng và tật lười biếng dễ khiến ta thay đổi lập trường và bỏ lỡ nhiều cơ hội quý giá. Giá trị lớn nhất của đời sống nương tựa chính là cơ hội giúp ta thấy rõ nguyên tắc tương tác giữa các cá thể, để ta bớt đề cao cái tôi của mình và làm lớn dậy hạt giống vị tha.

 

Nhà thiền thường hay nhắc câu: "Hổ ly sơn hổ bại; tăng ly chúng tăng tàn". Một con cọp khi tách rời khỏi núi rừng vốn là địa thế quen thuộc của nó thì thế nào cũng bại trận. Dù có khi đối thủ của nó chỉ là loài chồn hoang, nhưng nhờ sức mạnh đoàn kết thì lũ chồn hoang ấy vẫn có thể hạ gục được nó - "Mãnh hổ nan địch quần hồ". Một nhà tu nếu rời khỏi đoàn thể tu hành vốn là nơi có nhiều năng lực tinh tiến và hòa hợp bảo hộ thì cũng sẽ dễ dàng bị sa vào cạm bẫy hấp dẫn của cuộc đời, rồi đánh mất sự thanh tịnh trong tâm hồn. Bởi sự xâm nhiễm này diễn ra êm ái và tinh tế trong từng giây phút, nếu không có sự quan sát của "con mắt tăng thân" thì khó mà phát hiện ra được.

 

Tất nhiên, lời răn dạy dành cho số đông bao giờ cũng có tính tương đối, bởi cái gì cũng có ngoại lệ. Trong thực tế vẫn có những vị có sự tỉnh thức và tự chủ cao độ, thì dù sống ngoài đoàn thể cũng không có gì làm thay đổi được phẩm chất của họ. Sở dĩ họ phải sống xa đoàn thể là vì họ muốn thực hiện lý tưởng cao đẹp của mình, chứ không phải vì họ muốn đi tìm sự phóng túng tự do cho bản thân. Tuy vậy, bao giờ họ cũng tâm niệm rằng mình đang sống giữa đoàn thể, nên từ nếp ăn tới nếp nghĩ của họ đều phản ánh tinh thần của đoàn thể. Cho nên, lối sống "tự lập" chỉ đúng khi ta muốn tự phấn đấu vươn lên mà không thích dựa dẫm vào người khác. Dù ta đã dựng nên cơ nghiệp, nhưng ta vẫn nhớ rằng mình chưa bao giờ ngừng sự tiếp nhận tình thương và niềm tin từ những người thân. Nương tựa nhau để luôn có ý thức tôn trọng và cần nhau là cấu trúc đẹp đẽ nhất của vũ trụ.

 

Loài thiên nga luôn cùng bầy đàn của mình bay theo hình chữ V trong những chuyến di cư về phương Nam tránh giá rét và tìm kiếm thức ăn. Với đội hình như thế, nhịp vỗ cánh của con bay trước sẽ giúp cho con bay sau tiết kiệm được 70% sức lực so với khi chỉ bay một mình. Trên thực tế chưa bao giờ có con thiên nga nào dám một mình bay từ phương Bắc về phương Nam, vì đoạn đường có khi dài tới hàng chục nghìn dặm. Điều rất đáng chú ý là khi con đầu đàn đã thấm mệt thì nó lập tức lùi lại để con bay kế thay vào vị trí của mình. Chúng không bao giờ độc tài lãnh đạo. Điều đặc biệt hơn nữa là khi có một con thiên nga bất ngờ bị kiệt sức hay trúng thương, nó sẽ được hai con mạnh khỏe khác ở lại yểm trợ và cả đàn sẽ giảm tốc độ đến mức tối thiểu để chờ chúng đuổi theo. Chúng không bao giờ bỏ qua việc nâng đỡ đồng loại của mình.

 

Khi nhìn bầy thiên nga luôn gắn bó bên nhau, có thể ta sẽ rơi nước mắt. Vì ta luôn tự cho mình là văn minh, nhưng lại tôn sùng chủ nghĩa cá nhân để phục vụ cho sự ích kỷ nhỏ nhoi của mình. Ta không muốn ai đụng tới ta và ta cũng chẳng buồn quan tâm đến nỗi khổ của kẻ khác. Ngay với những người thân trong gia đình mà ta còn sống rất ơ hờ, thì đừng nói chi đến hai chữ "đồng loại" lớn lao kia. Mà có gì là lớn lao đâu. Nếu ta không thương được đồng loại của mình, không nâng đỡ được dân tộc của mình, không chia sớt được nỗi khổ niềm đau với quê hương mình thì ta lấy tư cách gì để đứng vững giữa trời đất này kia chứ? Sống mà chỉ biết đến bản thân thôi thì đâu có ý nghĩa gì để sống.

 

Vậy nên, ta hãy cố gắng vượt qua những cái nhìn hạn hẹp mà siết chặt tay nhau, để cùng giương lên những cánh buồm to lớn cho con thuyền đời lướt nhanh tới phía trước. Đừng ỷ vào tài năng hay sự may mắn rồi tự ban cho mình một vị trí quá lớn khiến ta trở nên khó hòa nhập với mọi người xung quanh. Không nhất thiết trở thành thuyền trưởng thì ta mới có thể tham dự cuộc hành trình vượt đại dương để đến bờ hạnh phúc. Mỗi thủy thủ chỉ cần tự biết trách nhiệm của mình và sẵn sàng hoán vị với nhau khi cần thiết. Nhờ đó ta kịp thời lấy lại phong độ để ứng phó với những đợt sóng vô tình phía trước. Hãy đi bên nhau để có cơ hội va chạm, để làm tan vỡ những thành trì cố chấp, để tập nhường nhịn và hòa điệu với nhau. Đó là những yếu tố quan trọng làm nên bản lĩnh và thành công của con người.

 

Ta hãy sống đời sống của một con người có hiểu biết và thương yêu. Hãy chấp nhận nhau như những con thiên nga luôn chấp nhận đồng loại của mình. Đừng vì nhu cầu hưởng thụ quá lớn, đừng vì cái tôi hẹp hòi bé nhỏ mà lúc nào ta cũng dựng lên trong lòng ngục thất của sự nghi ngờ, lo lắng và sợ hãi để ứng phó với nhau. Nếu ta còn có thể đi chung đường với nhau, còn nhìn nhau tận mặt, còn sẵn sàng lên tiếng nhờ nhau hay hết lòng nâng đỡ nhau, là ta vẫn còn giữ được phẩm chất của một sinh linh mầu nhiệm. Không có phẩm chất ấy thì ta không thể nào hạnh phúc. Vì hạnh phúc chỉ thật sự có được khi ta biết sẻ chia.

 

 

Đi như một bầy chim

Vượt vùng trời băng giá

Đừng một mình ra khơi

Biển đời nhiều sóng cả.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/05/2021(Xem: 4933)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5065)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4429)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4089)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4687)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4149)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3594)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 6875)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
30/04/2021(Xem: 6950)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
27/04/2021(Xem: 5045)
Tánh Không ra đời một thời gian dài sau khi đức Phật Nhập diệt do Bồ tát Long Thọ xiển dương qua Trung Quán Luận. Mặc dầu khi còn tại thế đức Phật có nói về Tánh Không qua kinh A hàm và Nikaya. Nơi đây Phật có nói về tánh xuất gia của hành giả đi tu. Hạng người tâm xuất gia mà thân không xuất gia thì gọi là cư sĩ. Và hạng người tâm và thân xuất gia thì gọi là tỳ kheo. Tánh Không cũng có hiện hữu trong kinh Tiểu không bộ kinh trung bộ. Phật có dạy: nầy Ananda, Ta nhờ ẩn trú Không nên nay ẩn trú rất nhiều. Kế tiếp Phật có dạy trong kinh A hàm về các pháp giả hợp vô thường như những bọt nước trôi trên sông: sự trống không của bọt nước.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]