Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

05. Thành Tựu Những Điều Kiện Thuận Lợi Cho Thời Điểm Lâm Chung

03/01/201920:00(Xem: 4911)
05. Thành Tựu Những Điều Kiện Thuận Lợi Cho Thời Điểm Lâm Chung

THÀNH TỰU NHỮNG ĐIỀU KIỆN THUẬN LỢI CHO THỜI ĐIỂM LÂM CHUNG

 

Nguyên bản: Gaining favorable condition for the time of death

Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma

Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D.

Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

His-Holiness-Dalai-Lama-111

-***-

 

Một số chết trong bào thai,

Số khác chết lúc sanh ra,

Nhưng một số lúc chúng có thể bò

Một số khi chúng có thể đi.

 

Một số thì già,

Những người khác là trưởng thành,

Ra đi từng người một

Như trái cây rơi trên đất.

-ĐỨC PHẬT-

 

-***-

 

Thi Kệ Số Sáu

Xin cho chúng tôi ghi nhớ những giáo huấn cho sự thực tập

Khi bác sĩ bỏ rơi chúng tôi và các nghi thức không có kết quả,

Bạn bè đã bó tay với sự sống của chúng tôi,

Và chúng tôi không còn gì nữa để làm.

 

Chương trước quan tâm chính yếu với hai chướng ngại đến một sự thực tập chính đáng khi lâm chung – đau khổ tràn ngập và những hiện tướng sai lầm làm sinh khởi tham luyến, thù oán, hay rối rắm. Trong khi tìm cách để tránh hai chướng ngại này, ta cũng cần phát sinh những thái độ đạo đức bằng việc nhớ lại sự thực tập của chúng ta. Khi không còn hy vọng gì được nữa cho kiêp sống này, khi các bác sĩ đã buông tay, khi những nghi lễ tôn giáo không còn hiệu quả nữa, và khi ngay cả những người bạn và người thân của ta từ trong đáy lòng đã không còn hy vọng, thì ta phải làm những gì có ích. Ngay khi ta có chánh niệm, thì ta phải làm bất cứ điều gì ta có thể giữ tâm thức chúng ta trong một cung cách đạo đức.

 

Để làm điều này, ta cần nhớ những chỉ dẫn cho việc phát sinh các thái độ đạo đức. Như tôi sẽ bàn luận trong những thi kệ sau, những chỉ dẫn được sử dụng (1) trước linh quang của sự chết; (2) khi linh quang của sự chết biểu hiện; (3) khi linh quang của sự chết chấm dứt và thể trạng trung ấm thân bắt đầu; và (4) trong thể trạng trung ấm vì thế ta có thể đạt được những thiện xảo du già đặc biệt. Bất cứ chỉ dẫn điều gì ta phải tiếp nhận phù hợp với năng lực và sự thông tuệ của ta cần phải được nhớ một cách rõ ràng vào những lúc này. Hãy điều khiển sự thực tập thông thường của chúng ta ở bất cứ trình độ nào mà ta đã đạt đến trong những lúc này.

 

Qua năm năng lực sau đây thì sự thực tập của ta có thể có một tác động lớn:

 

1-    Năng lực của sự quen thuộc: trau dồi thường xuyên và trở thành quen thuộc đến bất cứ điều thực tập nào thường lệ của ta là – cho dù đây là sự trau dồi của xu hướng giải thoát khỏi sanh tử luân hồi, việc trau dồi từ ái, bi mẫn, việc trau dồi của mục tiêu để đạt được Giác Ngộ vì lợi ích của chúng sanh, hay việc trau dồi những giai đoạn của Tantra Yoga Tối Thượng.

2-    Năng lực hướng đến tương lai: hãy nghĩ, “Tôi sẽ duy trì sự thực tập của tôi trong kiếp sống này, thể trạng trung ấm thân, và những kiếp sống tương lai cho đến khi đạt được Quả Phật.”

3-    Năng lực của những thiện nghiệp: hãy tích tập năng lực của những hành vi phước đức (thiện nghiệp) để thúc đẩy sự thực tập của ta.

4-    Năng lực của việc trừ tiệt: hãy quyết định rằng tất cả những hiện tượng chẳng hạn như sanh, chết, và trung ấm thân chỉ tồn tại một cách lệ thuộc – chúng không có sự tồn tại cố hữu, ngay cả trong vi tế nhất. Hãy thực hiện quyết định này như một phần của niềm tin chúng ta rằng sự tự yêu mến là một kẻ thù, việc suy nghĩ, “Rằng tôi trải nghiệm khổ đau trong vòng luân hồi là qua sự tự yêu mến; gốc rể của sự tự yêu mến đến từ vọng tưởng rằng chúng sanh và mọi thứ là tồn tại cố hữu, trái lại chúng không như vậy.”

5-    Năng lực của nguyện ước: hãy lập đi lập lại nguyện ước sau đây: “Ngay cả sau khi chết nguyện cho tôi đạt được một thân thể phục vụ như một sự hổ trợ cho sự thực hành giáo huấn trong kiếp sống tới. Quan tâm cho một sự hướng dẫn tâm linh tuyệt vời, nguyện cho tôi không bị tách rời khỏi sự thực tập.”

 

Năm năng lực này là đặc biệt lợi lạc trong việc ghi nhớ để thực tập, ngay khi khó để làm như vậy.

 

Khi rõ ràng rằng một người nào đó sắp chết, bạn bè không nên tập họp chung quanh người ấy trong một cách dính mắc, nắm chặc tay người sắp chết, ôm lấy người ấy khóc lóc đẫm lệ, hay than vãn hoàn cảnh. Điều này sẽ không giúp ích gì cả; thay vì thế, cung cách như vậy sẽ làm phát sinh một thái độ thèm khát trong tâm thức người sắp chết, làm hủy hoại bất cứ cơ hội nào cho việc phát sinh một tư duy đạo đức. Bạn bè và người thân nên giúp để cung ứng những điều kiện đúng đắn cho việc phát sinh đạo đức bằng việc nhắc nhở người ấy về những hướng dẫn và thực hành tôn giáo, nói nhỏ nhẹ vào tai cho đến khi hơi thở ra chấm dứt.

 

Thí dụ, nếu người sắp chết tin vào một Thượng Đế tạo hóa, thế thì hãy nghĩ Thượng Đế có thể làm cho người ấy thoải mái hơn, an bình hơn, và ít dính mắc, sợ hãi, sân hận, và hối tiếc hơn. Nếu người sắp chết tin vào tái sanh, thế thì hãy nghĩ về kiếp sống tới đầy đủ ý nghĩa trong việc phụng sự người khác sẽ có những kết quả tương tự. Một Phật tử có thể chánh niệm về Đức Phật và hồi hướng phước nghiệp trong kiếp sống này đến kiếp sống mới tích cực. Một người không tín ngưỡng có thể quán chiếu tương tự rằng sự chết là một bộ phận tất yếu của đời sống, và bây giờ nó đang diễn ra thì lo lắng không ích gì. Điểm chính là sự an bình của tâm hồn nhằm để không quấy rầy tiến trình của sự chết.

 

TOÁT YẾU THỰC TẬP

 

1-    Thật hữu ích để biết rằng ở một thời điểm nào đó tất cả mọi hy vọng cho sự tiếp tục của kiếp sống này sẽ chấm dứt. Vào lúc ấy bác sĩ, tu sĩ, bè bạn, và người thân không thể giữ ta lại kiếp sống này; nó tùy thuộc vào ta làm bất cứ điều gì hữu ích.

2-    Trong khi lâm chung, ta cần nhớ lại những hướng dẫn tâm linh phù hợp với trình độ thực tập của chính ta và biểu hiện nó.

3-    Hãy phát triển việc quen thuộc với sự thực tập của ta. Hãy quyết định duy trì đường hướng tâm linh này trong tất cả mọi hoàn cảnh, bất chấp nó khó khăn như thế nào. Hãy dấn thân trong nhiều hành động phước đức vì thế sự tích lũy năng lực của chúng tác động mọi khía cạnh của sự sống và sự chết của ta. Hãy nhận thấy rằng khổ đau sinh khởi từ sự tự yêu mến và hãy học hỏi để yêu mến người khác. Hãy thường xuyên nguyện ước duy trì sự thực tập tâm linh của ta qua những kiếp sống tương lai.

4-    Khi một người khác chết, hãy cẩn thận không làm người ấy khó chịu bằng việc làm dính mắc hơn hay kích động sân hận và thù oán. Không kêu la sự ra đi của họ, ôm nắm họ, hay khóc lóc trong sự hiện diện của họ. Hãy giúp đở họ ra đi một cách đầy đủ ý nghĩa bằng việc nhắc nhở họ về sự thực tập sâu hơn.

5-    Nếu hoàn toàn có thể, hãy yêu cầu những người khác cũng làm như ta. Hãy xếp đặt để có người nào đó nói một cách êm dịu vào tai ta thỉnh thoảng, nhắc nhở ta về một thái độ thực tập tâm linh đặc thù mà ta muốn thể hiện.

 

Thi Kệ Số Bảy

Xin cho chúng tôi có sự tự tin hân hoan và hỉ lạc

Khi thực phẩm và tài sản được tích lũy với những sự đau khổ bị bỏ lại phía sau

Và chúng tôi chia lìa mãi mãi với những người thân yêu mến và ước mong,

Ra đi đơn độc tới một hoàn cảnh hiểm nghèo.

 

Thông thường, nếu ta nghe rằng sự chết của ta sắp xảy đến, sẽ thật sầu khổ, không chỉ cho chính ta mà cả bạn bè và gia đình. Trong nổi đau buồn này, tiến trình của sự chết – sự rút lui dần dần của tâm thức – sẽ xảy ra. Tuy nhiên, nếu như sự giải thích ở trên, ta đã quán chiếu trên tầm quan trọng của việc rút ra tinh  hoa của hoàn cảnh kiếp sống này và sự cần thiết cho nhu cầu thực tập tâm linh, và đã quán chiếu lặp đi lặp lại tính vô thường, thế thì qua việc nhớ lại những sự hướng dẫn này trong khi lâm chung, ta sẽ không bị ảnh hưởng bởi những điều kiện không thuận lợi như đau buồn và sầu khổ. Tất cả những hiện tướng phối hợp với sự chết thay vì làm ta xao lãng, lại nhắc nhở ta về sự thực tập và khuyến khích ta hướng đến việc hành thiền.

 

Với điều này trong tâm, thật sẽ có thể chết với an lạc và tự tin, giống như một đứa bé vui vẻ trở về nhà cha mẹ của nó. Trong những người sẽ đi vào thể trạng trung ấm thân giữa những kiếp sống, điều tốt nhất có thể quyết định sự tái sanh mới của họ; chẳng hạn như một người có thể chết với sự tự tin, mà không có bất cứ sự lo lắng nào. Một hành giả trung bình sẽ không sợ hãi, và người tệ nhất cũng sẽ không có bất cứ sự hối tiếc nào. Vì ta đã chuẩn bị cho việc tái sanh trong một cung cách đầy đủ ý nghĩa – có thể tiếp tục sự nổ lực tâm linh – không có hối tiếc, phiền muộn hay sợ hãi khi sự chết đến. Tâm thức chúng ta có thể ra đi với sự tự tin mạnh mẽ.

 

Một số tu sĩ và học giả mà tôi biết đã chết trong cung cách ấy. Họ nhận ra rằng họ sắp chết và mời gọi những người quen của họ lại để chào giả biệt. Vào ngày họ chết họ đắp lên bộ y màu vàng nghệ, và thâm nhập thiền định mà không có một chút lo lắng nào về sự chết. Một tu sĩ ở Dharamsala, sau khi sau khi yêu cầu người thị giả đem cà sa đến, ngài đắp lên và qua đời. Một vài vị ở Ấn Độ này đã có thể ở trong tâm linh quang trong nhiều ngày – một người là mười bảy ngày, những người khác trong chín hay mười ngày. Như một dấu hiệu của điều này, sau họ ngừng  thở, thân thể của họ vẫn tươi nhuận, không có một chút mùi hôi nào, vào toàn thời gian ấy trong xứ sở nóng bức này. Những cá nhân như vậy có thể duy trì không có biến động trong tâm linh quang của sự chết, và chết với sự tự tin và an lạc.

 

Trưởng lão giáo thọ của tôi, Ling Rinpochay, đã nói với tôi câu chuyện của một lạt ma thật vui và buồn cùng một lúc. Vào lúc gần qua đời, vị lạt ma đắp cà sa và nói với những người thiện hữu của ngài rằng ngài sắp chết. Sau đó, trong khi đang ngồi trong tư thế hoa sen của thiền tập, ngài viên tịch. Một trong những học trò mới của ngài, vừa đến từ một vùng xa xôi, không biết về khả năng viên tịch trong tư thế ngồi thiền, vào phòng của vị lạt ma và đã thấy thân thể của vị thầy trong tư thế ngồi dậy. Ông ta tưởng rằng một linh thức nào đã nhập vào thân thể của thầy ông, cho nên ông đã xô ngả thân xác ấy xuống!

 

TOÁT YẾU THỰC TẬP

 

1-    Tránh bị sầu não về sự chết, hãy nương tựa trong tôn giáo tương ứng với ta trong lòng từ bi cho tất cả chúng sanh; quán chiếu về tầm quan trọng của việc rút ra những tinh hoa của kiếp sống hiện tại, là thứ cho phép cho ta với cả việc thoải mái và những cần thiết của việc thực tập tâm linh, và hãy quán chiếu lập đi lập lại về tính vô thường.

2-    Với căn bản ấy cho việc nhớ lại một cách hiệu quả sự thực tập của ta trong khi lâm chung, thì ngay cả những sự kiện và hiện tướng kinh khủng có thể xảy ra sẽ chỉ phục vụ để thúc giục ta tĩnh lặng và để hành thiền với niềm hoan hỉ và tự tin.

-***-

 

Ẩn Tâm Lộ, Friday, August 10, 2018

 

 

HƯỚNG DẪN VỀ SỰ CHẾT ĐỂ SỐNG TỐT ĐẸP HƠN

 

Nguyên bản: Advice on Dying and Living a Better Life

Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma

Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D.

Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

 

MỤC LỤC

01-Tỉnh thức về sự chết

02- Giải thoát khỏi sự sợ chết

03- Chuẩn bị cho sự chết

04- Loại trừ những chướng ngại đến cái chết có lợi

05-Thành tựu những điều kiện thuận lợi cho thời điểm lâm chung

06- Hành thiền trong khi đang chết

07- Cấu trúc bên trong

08- Linh quang của sự chết

09- Phản ứng với tình trạng trung ấm thân

10- Đón nhận một sự tái sanh tích cực

11- Thi kệ quán chiếu hàng ngày

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2021(Xem: 4989)
Nhà thiền có danh từ Tọa Xuân Phong để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp. Danh từ đó, tạm dịch là “Ngồi Giữa Gió Xuân” Mùa Xuân chẳng phải là mùa tiêu biểu cho những gì hạnh phúc nhất trong bốn mùa ư? Hạ vàng nắng cháy, vui chơi hối hả như đàn ve sầu ca hát suốt mùa để cuối mùa kiệt lực! Thu êm ả hơn, nhưng nhìn mây xám giăng ngang, lá vàng lả tả, tâm- động nào mà không bùi ngùi tưởng tới kiếp nhân sinh?
07/02/2021(Xem: 5220)
Chú mục đồng chậm rãi bước xuống sông. Bên cạnh chú, con trâu lớn nhất đàn ngoan ngoãn xuống theo. Đôi mắt hiền lành của nó nhìn chú như mỉm cười, tin tưởng và thuần phục. Những con trâu bé hơn lại nhìn bước đi vững chãi, an lạc của con trâu đầu đàn mà nối nhau, cùng thong thả qua sông. Đây là khúc sông cạn mà chú đã dọ dẫm kỹ lắm. Đáy sông lại không có những đá nhọn lởm chởm có thể làm chân trâu bị thương. Bên kia sông, qua khu rừng có những cội bồ đề râm mát là tới đồng cỏ rộng. Mùa này, sau những cơn mưa, cỏ non vươn lên xanh mướt, đàn trâu gồm bẩy con mà chú có bổn phận chăm sóc tha hồ ăn uống no nê sau những giờ cực nhọc cầy bừa ngoài đồng lúa.
07/02/2021(Xem: 8006)
Khi những cơn bảo và áp thấp nhiệt đới hung hãn nhất vừa tạm qua đi, khí trời phương Nam cũng trở buồn se lạnh. Nhiều người cho đó là hoàn lưu của những cơn bão miền Trung mà tất cả con dân “bầu bí chung dàn” vẫn còn đang hướng về chia sẻ, nhưng ít người nhận ra rằng đó chính là cái se lạnh của mùa đông phương Nam, báo hiệu mùa xuân sắp đến nơi ngưỡng cửa của bộn bề lo toan hằng năm.
06/02/2021(Xem: 6146)
Mười bức “Tranh Chăn Trâu” trong phần này là của họa sư Nhật Bản Gyokusei Jikihara Sensei, vẽ vào năm 1982 nhân một cuộc thăm viếng thiền viện Zen Mountain Monastery ở Mount Tremper, New York, (Hoa Kỳ). Họa sư vẽ để tặng thiền viện. Các bài thơ tụng thời nguyên gốc của thiền sư Quách Am viết vào thế kỷ thứ 12. Thơ tụng được chuyển dịch ở đây bởi Kazuaki Tanahashi và John Daido Loori, sau đó được nhuận sắc bởi Daido Loori để mong tạo lập ra những hình ảnh và ẩn dụ cho thêm giống với phong cảnh núi sông ở quanh thiền viện Zen Mountain Monastery. Thiền sư Daido Loori là người lãnh đạo tinh thần và là tu viện trưởng của thiền viện này.
04/02/2021(Xem: 5628)
Hôm qua mình có giới thiệu cuốn sách Buddhism in America (Phật Giáo Mỹ) của Richard Hughes Seager. Có bạn hỏi thêm muốn tìm hiểu Phật Giáo Mỹ nên nhờ mình giới thiệu vài cuốn. Nghĩ rằng đây là câu hỏi hay nên mình xin viết giới thiệu 7 cuốn sách để nhiều người lợi lạc. 1. Cuốn The Faces of Buddhism in America (Diện Mạo của Phật Giáo ở Mỹ) do Charles Prebish 2. Buddhist Faith in America (Đức Tin Phật Giáo ở Mỹ) tác giả Michael Burgan 3. Buddhism in America của Richard Huges Seager (1999, tái bản 2012) 4. Buddhism in America của Scott Mitchell 5. Altered Traits: Science Reveals How Meditation Changes Your Mind, Brain, and Body, 2017 6. A Mindful Nation: How a Simple Practice Can Help Us Reduce Stress, Improve Performance, and Recapture the American Spirit, 2012, 7: American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
01/02/2021(Xem: 4266)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 9184)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 5733)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
01/02/2021(Xem: 7047)
Phần này bàn về các danh từ gọi dụng cụ gắp cơm và đưa vào miệng (ăn cơm) như đũa hay trợ, khoái, giáp cùng các dạng âm cổ của chúng. Các chữ viết tắt khác là Nguyễn Cung Thông (NCT), Hán Việt (HV), Việt Nam (VN), TQ (Trung Quốc), ĐNA (Đông Nam Á), HT (hài thanh), TVGT (Thuyết Văn Giải Tự/khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), TV (Tập Vận/1037/1067), TNAV (Trung Nguyên Âm Vận/1324), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), TViB (Tự Vị Bổ/1666), TTTH (Tứ Thanh Thiên Hải), KH (Khang Hi/1716), VBL (tự điển Việt Bồ La/1651) ĐNQATV (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị/1895).
29/01/2021(Xem: 5744)
Ở đời không phải ai cũng chấp nhận sự chân thành của bạn. Những người quanh ta luôn công nhận việc tốt mà ta đã và đang làm, trở thành đương nhiên như thế… và đến một ngày kia bạn quá mệt mỏi liệu có ai bên cạnh bạn và cảm thông với bạn không? Vì trong suy nghĩ của họ bạn là người tự nguyện cho đi..., trong hoàn cảnh như thế liệu bạn có tiếp tục cho đi nữa hay không? Tất nhiên là có, chúng ta hãy tiếp tục sống tốt nhưng phải là người tốt thông minh. Hãy tin rằng không có nỗ lực nào là uổng phí, hãy có quan điểm và lý tưởng của chính mình, luật nhân quả luôn đền bù cho bạn xứng đáng. Nhà Phật dạy có Luân Hồi-Ngiệp Báo. Không ai phủ nhận rằng quan tâm chăm sóc người khác là tốt, nhường nhịn người khác đều là tốt, tuy nhiên quan tâm quá, họ sẽ làm khó ta vạn lần, nhiệt tình quá họ sẽ đâm ra nghi ngờ, thậm chí khiến bạn bị tổn thương …
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]