Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chúng tôi học Duy Thức (6)

10/04/201313:56(Xem: 7020)
Chúng tôi học Duy Thức (6)

Chúng tôi học Duy Thức
(tiếp theo)

Tâm Minh


Thân kính tặng ACE Áo Lam


Sau khi được giới thiệu ‘bề ngoài ‘ của căn nhà Duy Thức, chúng tôi tiến sâu thêm một chút vào bên trong ; bắt đầu bằng bài kệ :

‘Anh em 8 chú một chàng si . . .

Làm chủ trong nhà Đệ Bát Y ‘

Thì ra thức thứ 8 mới là ‘ Ông Chủ’ Hôm nay ACE chúng tôi quyết ‘ làm quen ‘ với Ông Chủ A lại Da thức này ( và nhắc nhở nhau rằng, ng chủ’ hay ‘người bán hàng’ v.v.. đều là biểu hiện của ‘Tâm’ hết đó nha ! J J !!)

Thức thứ 8 ( còn được gọi là Tàng thức hay A lại Da thức ) đưọc xem là thức căn bản của mọi hiện tưọng . Tàng= kho chứa - Thức này chứa đựng mọi kinh nghiệm của đời sống mỗi con ngưòi và là nguồn gốc tất cả các hiện tượng tinh thần ; bởi vì như đã biết : thức thứ 7 là Mạt na đã đem các pháp hiện hành huân chứa vào cái ‘kho’ vô tận này.

Khái niệm A Lại da thức là cơ sở của Duy Thức Tông, qua đó người ta giải thích sự hiện hữu của ‘cái gọi là con người ’ - ‘cá nhân’, cái mà Mạt na chấp là ‘cái Ta’ hay ‘ cái Tôi’ vậy. Tất cả những ghi nhận của mắt, tai, mũi, lưỡi, tất cả những việc làm của thân , miệng, ý ( gọi chung là nghiệp : thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp ) đều được tích lũy trong A Lại Da Thức , dưới hình thức ‘ những hạt giống’ , đợi nhân duyên đầy đủ sẽ ‘hiện hành’ Nói cách khác, khi các hạt giống đang ngủ yên trong Tàng thức thì gọi là Nhân, khi đầy đủ các trợ duyên ,nó hiện khởi ra thì gọi làQuả .Ví dụ : trong tâm thức chúng ta luôn có những hạt giống thiện và bất thiện , khi gặp thuận duyên sẽ hiện khởi ngay - như những hạt giống của sân hận, giận dữ - nếu gặp thuận duyên ( bị ai chọc tức, khiêu khích, mắng chưởi, đánh đập v..v..) thì những hạt giống đó sẽ hiện hành ngay ( đỏ mặt, giận dữ, phản ứng , đánh đập hay mắng chưởi lại v..v..) những hành động mới hiện hành này lại gây ra những hạt giớng mới, những chủng tử mới của nghiệp, lại được huân vào Tàng thức v..v. . tạo ra cái vòng lẩn quẩn , tiếp tục tạo tác và chịu sự chi phối của nhân quả luân hồi . Những hạt giống tư tưởng trong A Lại da thức cũng như mầm mống của hạt giống trong cây chanh chẳng hạn : hoa chanh và trái chanh tuy chưa xuất hiện nhưng nó đã có tiềm tàng trong cây chanh , chỉ chờ hội đủ thời gian, sự tưới tẩm, bón phân , thời tiết v..v. thì sẽ đơm hoa kết trái mà thôi . Ngoài ra Nhất Thiết hữu Bộ còn gọi hiện tượng này là Căn bản thức nghĩa là các hạt giống tâm thức giống như biểu hiện của sóng & nước ( sóng và nước là một, sóng luôn hiện hữu trong nước - không có nước thì không thể nào có sóng được )

Về đặc tính của A Lại Da thức, Mạt Na thức và 6 thức kia, có bài tụng cho dễ nhớ như sau ( bài Việt dịch của thầy Thiện Hoa ) :

Hằng thẩm tư lương ngã tương tùy ( Hằng xét đo lường theo chấp ngã

Hữu tình nhật dạ trấn hôn mê Hữu tình ngày đêm bị mê muội

Tứ hoặc bát đại tương ưng khởi 4 hoặc, 8 đại chung nhau khởi

Lục chuyển hô vi ‘nhiễm tịnh y’ 6 thức gọi là ‘nhiễm tịnh y’ )

( 4 hoặc = 4 căn bản phiền não : Si, Kiến, Mạn, Ái ; 8 đại = 8 món tùy phiền não)

Chi ly hơn một chút, Bát thức qui cũ tụng cũng có nói thêm :

Thức thứ 8 có Hằng mà không Thẩm xét

Thức thứ 7 ,vừa Hằng lại vừa Thẩm xét

Thức thứ 6 , có Thẩm xét mà không Hằng

5 Thức trước ,không Hằng và không Thẩm

( đối với ACE chúng tôi, chữ khó ở đây là Hằng và Thẩm . Hằng = permanent, always = luôn luôn (có mặt 24/24) ; Thẩm = khảo sát, thẳm sát, lo nghĩ, tư lượng, lo nghĩ ,tính toán v..v..= reflecting )

Các bài tụng cũng nói rằng tính chất của Tàng thức là vô phú và vô ký ( vô phú = không bị vây bủa, ngăn che ; vô ký = không bị chi phối bởi thiện hay ác ) . Sự hiện hữu của nó trôi chảy như dòng sông ( hằng chuyển như bộc lưu) ,không thể nói là thường hằng hay đoạn diệt.

Buổi học hôm nay đưa đến cho ACE chúng tôi những bài học sau :

1) Sự huân tập đóng vai trò thật quan trọng trong đời sống chúng ta . Những điều mắt thấy tai nghe, những hành động của thân, miệng, ý v..v.. đươc cất kỹ vào Tàng thức chờ ngày xuất hiện ; vì vậy chúng ta phải rất cẩn trọng trong việc tu tập của chính bản thân và giáo dục đàn em , con em của chúng ta . Về bản thân, chúng ta phải năng tưới tẩm những hạt giống thương yêu hiểu biết , từ bi, trí tuệ , tinh tấn v..v.. vì chúng là những hạt nhân khi đủ nhân duyên sẽ đơm hoa kết trái an lạc , hạnh phúc ; và tìm cách diệt những hạt giống sân hận , tham lam, ích kỷ như người làm vườn chăm chỉ tưới cây ,bắt sâu, bón phân cho những cây lan, khóm hồng ,cây cam cây quýt và xịt thuốc để diệt cỏ dại vậy . Sâu ăn hại cây , cỏ dại chiếm đất làm cây khô héo hay giết chết cây v..v. là những chủng tử xấu, cần phải đề phòng, đừng để chúng được ( hay ‘bị’) huân vào A Lại da Thức, vì khi đủ duyên ,chúng sẽ hiện khởi thành những hành vi tội lỗi, lời nói độc ác, có năng lực làm hại mọi người và hại cả bản thân mình .

2) Đối với các em, chúng ta phải là những gương tốt , đừng ‘ làm một đường nói một nẻo’ đừng thất hứa với các em, đừng dạy các em những thói quen xấu ( cờ bạc, rượu chè, mánh mung, ăn nói bậy bạ , nói xấu lẫn nhau, mất đòan kết, la mắng hay dùng những lời không đẹp với nhau v..v..- ở đây chúng ta có rất nhiều điều cần tự cảnh giác mình , vì không thể kể hết được) . Chúng ta dạy các em Phật Pháp, Chuyên Môn, Trò Chơi , tiếng Việt v..v.. qua những lời hay ý đẹp , đó là chúng ta đã huân vào Tàng thức của các em một vườn hoa trái tương lai sẽ đơm bông kết quả , như trao tặng các em một hành trang tinh thần quí giá của Anh Chị HTr. /GĐPT trước khi các em vào đời.

3) Bài học thứ 3 là dựa vào tính chất của Tàng Thức ( vô phú, vô ký), ta thấy rõ Tàng thức rất thụ động, nó không phân biệt tốt xấu ; nó thuần túy là ‘cái kho chứa,’ vàng bạc châu báu, bông hoa thơm tho v..v.. cũng chứa, mà rác rưởi hôi tanh dơ bẩn cũng chứa hết ; cho nên Tàng thức không thể đóng vai trò giải thoát khỏi những tập khí ô nhiễm v..v.. được . Vì thế vai trò lảnh đạo để ‘vượt ngục’ sinh tử luân hồi chính là vai trò của Ý thức. Chỉ có ý thức - cái thường linh hoạt suy nghĩ bao la vũ trụ đó- suy nghĩ tốt lành cũng nó mà suy nghĩ xấu ác cũng nó . Chính nó đồng thời có thể gieo vào Tàng thức những hạt giống (chủng tử) thánh thiện tốt lành, vừa ‘kiểm điểm, góp ý, phê bình’ để chuyển hoá ‘bệnh’ si mê chấp ngã cuồng dại của Mạt na. Bởi vậy dù tu theo pháp môn nào, chúng ta cũng thấy ‘bí quyết ‘ vẫn là ‘cột cái Ý lại’ như cột con trâu lòng đừng cho nó chạy tứ tung phá hại lúa mạ của người khác vậy - Muốn tu hành có kết quả, ta phải làm chủ Ý.

4) Bài học thứ 4 là về cái mà chúng ta thường gọi là ‘nghiệp’ . Nghiệp là gì ? Nghiệp có phải là một hình phạt từ trên trời rơi xuống hay 1 tai họa ‘vô cớ’ dính vào ta hay không ? Không, nghiệp là những hành động có tác ý của thân, miệng, ý đã được huân vào trong Tàng thức như những chủng tử, đợi có đủ cơ duyên thuận tiện sẽ xuât hiện như một cái quả vừa đủ thời gian để chín muồi. Đức Phật cũng dạy : ‘ Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp; nghiệp là quyến thuộc, là thai tạng mà từ đó con người được sinh ra. Như thi hào Nguyễn Du cũng được xem như am hiểu Phật Pháp khi Ông viết ( trong truyện Kiều) :

‘Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẩn trời gần trời xa’

để nói lên trách nhiệm của con người trước luật Nhân Quả : gieo lúa thì được gạo, gieo hạt cam thì hái trái cam, gieo gió thì gặt bão v..v..không thể nào gieo hạt cam mà đòi có trái bưởi được.

5) Bài học thứ 5 là về tinh thần giáo dục Phật giáo nói chung, tinh thần giáo dục trong GĐPT nói riêng. Chúng ta thấy rất rõ sự tiến triễn tâm lý con người phát triển từ bên trong mà ra chứ không phải chỉ từ sự thúc đẩy bên ngoài mà có. Thực tế cho thấy các trẻ em cùng cha mẹ, hưởng 1 cuộc sống vật chất và tinh thần như nhau nhưng tính tình có thể rất khác nhau, thậm chí hai anh / chị em song sinh có khi tính tình cũng không giống nhau. Vì vậy giáo dục phải lấy đứa trẻ ( con người) làm khởi điểm, phải căn cứ trên tâm lý của nó chứ không phải là của người dạy nó, tâm lý này không phải là cố định, theo đúng mẫu mã nào, mà là luôn luôn biến đổi, chuyển hoá không ngừng . Vì thế chúng ta, những người HTr. GĐPT cần phải theo kịp tinh thần giaó dục tự chủ, tự giác, năng động, sáng tạo v..v.. một nền giaó dục có tính cách đánh thức con người, và trả con người về cho chính nó ( như chúng ta thường nghe chư Phật chư Tổ bảo ‘ đi tìm bản lai diện mục ‘ ) mà đức Phật đã dạy cho đệ tử của ngài cách đây gần ba ngàn năm .

6) Bài học cuối cùng của ACE chúng tôi hôm nay lại cũng là một bài về ‘ thuật ngữ ‘ DTH hay là vấn đề ‘chữ một’ : đó là 3 chữ ‘ cảnh’ , ‘tánh’ và ‘lượng’

***Cảnh: có 3 cảnh : tánh cảnh:là tự thân của thế giới thực tại khách quan (the realm of things in themselves) Tánh= bản chất ; cảnh= đối tượng

Vậy tánh cảnh= bản chất của đối tượng = bản chất của thế giới thực tại khách quan đới chất cảnh: là hình ảnh về một thực tại nào đó trong tri giác của ta = ảnh tượng được nương vào và sinh bởi tánh cảnh = cảnh đuợc mang theo, được phản ánh từ thực tại ( ví dụ khi ta thuơng hay ghét một người nào đó thì hình ảnh của người ấy trong lòng ta là hình ảnh được sáng tạo bởi tâm thức chứ không phải hình ảnh của người ấy trong thực tế ; nói các khác, đó là hình ảnh đã bị ‘ méo mó’ qua suy diễn của tâm phân biệt , vì vậy Thiền quán dạy ta buông bỏ những đới chất cảnh ( ảo ảnh) để thể nhập vào tánh cảnh .

độc ảnh cảnh :thế giới ảnh tượng chỉ có trong tâm thức chứ không có trong thực tế ( như trong giấc mộng ) ; cũng là một biểu hiện của Tàng thức A lại da

Trong 3 Cảnh này Tàng thức chỉ quan hệ với (hay duyên với) Tánh Cảnh

***Tánh:cũng có 3 Tánh là Thiện, Bất thiện và Vô ký (= trunbg tính= không thiện không ác) . Trong 3 tánh này, Tàng thức duyên với vô ký

***Lượng: là hình thái của nhận thức , cũng có 3 lượng :

Hiện lượng : trực giác ( nhận thức trực tiếp, không cần qua suy luận) . Trực giác có thể đúng hay sai , nếu đúng thì gọi là chân hiện lượng, sai thì gọi là tợ hiện lượng

Tỷ lượng: phải dùng đến suy luận . Cũng vậy, tỷ lượng có thể đúng ( = chân tỷ lượng) hay sai (tợ tỷ lượng)

Phi lượng : bao gồm tợ hiện lượng và tợ tỷ lượng

Trong 3 Lượng, Tàng thức chỉ duyên với Hiện lượng

Buổi học chấm dứt tại dây với lời nhắc nhở nhau nhớ học thuộc định nghĩa của 3 Cảnh, 3 Tánh và 3 Lượng , đừng có nhầm Tánh Cảnh với 3 Tánh đó nha !J J !! Có như vậy sau này nói đến các mối quan hệ của Mạt na với 3 Cảnh, 3 tánh và 3 Lượng mới hiểu và khỏi nhầm lẫn được .


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/10/2014(Xem: 6440)
Đối với người đời, không có phước đức nào lớn cho bằng vợ đẹp, con khôn, của cải đầy kho, quyền thế, danh vọng, ăn ngon mặc đẹp… Thế nhưng bạn ơi, -Biết bao nhiêu ông thủ tướng, tổng bộ trưởng bị tù đày vì tham nhũng, gian trá, lạm quyền…thậm chí buôn lậu, dâm ô. Biết bao nhiêu ông tổng thống bị ám sát, lật đổ cũng chỉ vì tranh giành quyền lực. -Ông bố đốt tờ giấy bạc mà người nghèo có thể mua bao gạo để tìm một món đồ cho cô đào cải lương đánh rơi trong phòng trà…vài chục năm sau ông con lại sống như kẻ ăn mày. -Ông bố cặm cụi làm việc suốt đời tao dựng gia tài khổng lồ. Ông con trở thành “công tử” ăn chơi phung phí, bao gái, đua đòi, ném tiền qua của sổ…chẳng mấy chốc phá nát sự nghiệp của cha ông.
20/10/2014(Xem: 21242)
Đây là một trong những câu hỏi mà phóng viên tờ Mandala đã phỏng vấn bác sĩ Alan Molloy, một thành viên lâu năm của Viện Phật học Tara ở tiểu bang Melbourne, Úc, một người đã chứng kiến sự phát triển của đạo Phật tại quốc gia này từ cuối thập niên bảy mươi đến nay.
20/10/2014(Xem: 7217)
Là tín đồ Phật giáo từ năm mười bảy tuổi, đạo hữu luật sư Christmas Humphreys (1901-1983) không thuộc bất cứ một giáo phái nào của Phật giáo. Ông tin vào Phật giáo thế giới, và ông nghĩ rằng: “chỉ trong sự phối hợp của tất cả các tông phái người ta mới có thể thấy trọn vẹn sự vĩ đại của tư tưởng Phật giáo” (only in a combination of all schools can the full grandeur of Buddhist thought be found). Để làm cho quan điểm của mình được Phật tử trên thế giới chấp nhận, ông đã trình bày Mười hai nguyên tắc của Phật giáo (Twelve Principles of Buddhism) nổi tiếng của mình vào năm 1945, được dịch ra 14 thứ tiếng và được nhiều tông phái Phật giáo trên thế giới chấp nhận. Mười hai nguyên tắc ấy có điều giống với Mười Bốn Nguyên Tắc của Đại Tá Olcott giới thiệu trong tác phẩm Phật pháp vấn đáp (Buddhist Catechism) của ông, được xuất bản vào cuối thế kỷ thứ 19.
17/10/2014(Xem: 6815)
Bài viết “Phật trên hè phố Oakland” của nhà báo Trần Khải, tiếp tục được tải truyền rộng rãi trên các website. Bài viết ghi lại đại cương sự kiện phóng viên Chip Johnson kể lại trên báo SFGate.com về một pho tượng Phật đã đem lại sự bình an, sạch sẽ cho một khu phố nhiều tội ác và rác rưởi trước đây. Chi tiết đặc biệt đã thu hút người đọc, là pho tượng Phật Thích Ca bằng đá, chỉ cao khoảng 2 feet, được đặt ở góc đường 11 và đường 19, trong khu Eastlake, thành phố Oakland , là do một người vô thần, tình cờ nhìn thấy tại một tiệm bán vật liệu xây cất.
16/10/2014(Xem: 13655)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đại mà con người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh. Tuy nhiên theo lời Phật dạy, Phật từ tâm, tâm sinh Phật, để đưa đến giải thoát giác ngộ. Do đó nếu đã là Phật tử rồi thì nhất định phải tin lời Phật dạy, hơn nữa Kinh Hoa Nghiêm còn nói: “niềm tin là mẹ của công đức”.
14/10/2014(Xem: 8732)
Bạn chưa từng ghé thăm mà không gọi trước. Vậy mà lần này, mở cửa, chưa nhìn thấy người đã thấy hoa và trái. Mấy bó cúc đại đóa vàng tươi che kín mặt, chưa đủ, tay kia còn chĩu nặng một giỏ, vừa hồng dòn, vừa soài xanh, mận chín. Tôi toan đỡ một thứ, bạn đã bước nhanh qua cửa, đi thẳng vào bếp, đặt quà xuống, và líu lo: - Hên ghê, mình vừa đến tiệm là xe chở hoa và trái cây phân phối các chợ cũng vừa tới. Xem này, thiệt là tươi. Mình mua ngay. Khách hàng đầu tiên đấy!
14/10/2014(Xem: 8031)
Con đường ấy, khởi bước, ngỡ không mấy khó và chắc cũng chẳng có chi dài, vì nương theo sự chỉ bảo của các vị Đạo Sư, các bậc thiện tri thức giảng giải lời Phật dạy, thì sự giải thoát, giác ngộ có bao xa! Tùy căn cơ người nghe, lời giảng dạy chỉ gom về một mối, là muôn kinh, vạn kệ, hằng hà pháp môn cũng chỉ để giúp ta nhận ra, rằng mỗi chúng sanh đều có Phật Tánh sáng chói như nhau, nhưng nếu không thấy, chỉ bởi vô minh che lấp mà thôi. Nhận ra, và xóa sạch được bụi vô minh thì chúng sanh “sẽ thành Phật” đó, lập tức là “Phật đã thành”.
14/10/2014(Xem: 8350)
Mỗi tuần, tôi có một ngày để làm hai việc tuyệt vời. Đó là, thứ nhất: làm thinh, thứ hai: không làm gì cả! Hôm nay đang là phút giây tuyệt vời đó. Sau những ngày lạnh bất thường, nắng sáng nay rất đẹp, vàng óng và ấm áp. Cây cỏ hoa lá rộ lên niềm vui. Mọi cánh cửa mở rộng để nắng ghé vào, mang hương thơm của đất trời chuyển hóa. Không mùi hương nhân tạo nào so sánh được với hương gió núi mây ngàn. Ít nhất, chủ quan tôi như thế.
14/10/2014(Xem: 7185)
Từ Tào-Khê tịnh thất lên ngôi chùa hoang vắng nằm sâu trong rừng thông miền đông bắc Hoa Kỳ, hành trang tôi đã nhẹ. Rồi từ ngôi chùa hoang vắng đó về lại tịnh thất, hành trang lại càng nhẹ tênh! Cái giầu có nhất trong gia tài tôi, chỉ là kinh và sách, nhưng sau chuyến “lên rừng độc cư”, nay từ ba kệ lớn, chỉ còn một kệ nhỏ, khi thực hiện lời phát nguyện “Tặng hết những gì có, tới những ai ngỏ lời xin” (trừ những cuốn có chữ ký và thủ bút của Thầy Tuệ Sỹ)
13/10/2014(Xem: 8285)
Tôi lặng người nhìn bức hình Tuệ Sỹ, vẫn gương mặt xương xẩu, vẫn đôi má lỏm sâu, vẫn cặp mắt rực sáng, vẫn gầy còm, chỉ là tóc đã bạc màu, y vàng nghiêm trang, kính cẩn cầm ba nén hương to, quì trước bàn thờ với bức ảnh hiền từ với nụ cười an lạc của Ôn. Ai nghe tin Ôn thị tịch cũng xúc động, cũng phải bái lễ, thọ tang. Thấy Thầy Như Minh từ Los cũng bay về, gương mặt buồn rầu như đang khóc tang. Chú cũng thuộc hàng hậu học, cũng tôn kính Ôn là bậc trưởng thượng, có gì lạ đâu. Chẳng có gì đặc biệt. Nhưng nếu có ai để ý, từ sau 1973, Chú không hề đặt chân lần nào nữa đến Vạn Hạnh, bấy giờ đã dọn về đường Trương Minh Giảng, chỉ trụ ở Già Lam, trên lầu, chia phòng với chú Dũng,[1] thì mới có thể hiểu được ý nghĩa của tấm hình này.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]