Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chúng tôi học Duy thức (7)

10/04/201313:56(Xem: 7995)
Chúng tôi học Duy thức (7)

Chúng tôi học Duy Thức
(tiếp theo)

Thức thứ 6 & thứ 7 : Ý thức & Mạt na thức

Tâm Minh

Thân kính tặng ACE Áo Lam


Như đã học trong bài đầu tiên về Duy Thức, ACE chúng tôi nhắc nhau nhớ là : ‘tu tâm’ là tu 2 ‘anh chàng ‘ này , 1 anh Ý thức thì ‘mơ tưởng bao la vũ trụ’ một anh Mạt na thì chấp ngã quá chừng , chấp 1 cách si mê , chấp Tàng thức làm ‘ngã’ - đến nỗi tính khí của Mạt na thường biểu hiện với 4 phiền não :

ngã si( quan niệm sai lầm về cái ‘ngã’ ) ;

ngã kiến( nhận thức sai lầm cho rằng đó là một cái ‘ngã’ độc lập và thường còn

ngã mạn (tự cao, tự đại, tự cho mình là ‘ số một’ - hơn ai hết !J J !)

ngã ái ( yêu ‘cái tôi’, cái ‘của tôi’ [mine] và cái ‘tự ngã của tôi’ [ myself ] )

Chính Tâm làm cho ta trong sạch, cũng chính tâm làm cho ta ô nhiễm. Trong thựtc tế, tâm là người thù nguy hiểm nhất mà cũng chính là người bạn chí thân của con người .

Đó là lý do mà chúng tôi phải học kỹ hơn về hai loại Tâm này .

Hôm nay chúng tôi đi sâu hơn một chút về Tâm hay là ‘Thức’ đó : hình thái của Thức có thể ví như sự chuyển động của vật chất và năng lượng , của sóng và nước, mà năng lượng thì vừa thuộc về vật chất (Sắc) vừa thuộc về phi vật chất ( Vô Sắc) , Trong bài’ Sự báo ứng của Nghiệp’ ngài Narada Thera ( Nam Tông) dạy về lịch trình tiến triển của dòng tư tưởng như sau : khi ta ngủ say, không chiêm bao mộng mị, tâm ở trong trạng thái tiêu cực , sinh diệt trong từng sát na, được gọi là Bhavanga . Luồng Bhavanga trôi chảy như một dòng suối , luôn luôn biến đổi, không khi nào giống hệt nhau trong 2 chập tư tưởng kế tiép . Không chỉ trong lúc ngủ mà lúc thức ta cũng có loại tâm này. Kinh Thắng Pháp Tập Yếu diễn tả lịch trình tiến triển của một tư tưởng qua ví dụ sau đây:

Một người nằm dưới gốc cây xoài , lấy khăn che mặt lại, ngủ say ; một ngọn gió thổi qua làm rung động nhánh cây và một trái xoài rụng xuống bên cạnh đầu anh ta . Anh ta tung khăn ra va hướng mắt về phiá có tiếng động ; thấy 1 vật, anh cầm lên quan sát và nhận ra đó là 1 trái xoài . Anh hả miệng ra cắn vào trái xoài ăn, nuốt ; xong nằm xuống ngủ trở lại. Câu chuyện thật đơn giản và một em bé cũng có thể đã gặp cảnh này, nó rất gần gũi với sinh hoạt hằng ngày, nhưng ở đây ta muốn diễn tả những hành động này theo thuật ngữ Phật Giáo , theo danh từ DTH cho nên ta phải ‘ tập nói’ theo những từ mới học trên đâymà thôi . Trong câu chuyện này :

Một người nằm dưới gốc cây xoài , lấy khăn che mặt lại, ngủ say = dòng bhavanga yên tĩnh trôi chảy ;

một ngọn gió thổi qua = tâm bhavanga vừa qua

làm rung động nhánh cây = tâm bhavanga rung động

và một trái xoài rụng xuống bên cạnh đầu anh ta = tâm bhavanga tắt sau khi rung động trong 2 chập tư tưởng ) .

Anh ta tung khăn ra va hướng mắt về phiá có tiếng động = (khi có đối tượng xuất hiện luồng bhavanga rung động 2 chập rồi tắt, tùy theo đối tượng xuất hiện, 5 giác quan bắt đầu họat động ; ở đây là MẮT = nhãn thức )

thấy 1 vật = nhãn thức ,

anh cầm lên = tiếp thọ tâm

quan sát = suy đạc tâm

và nhận ra đó là 1 trái xoài = xác định tâm ( phân biệt, lựa chọn, thu nhận hay loại bỏ ) .

Anh hả miệng ra cắn vào trái xoài ăn = việc thưởng thức trái xoài gồm 7 chập tư tưởng-gọi là Javana ( vai trò của ý chí ) . (1)

Nuốt miếng xoài = đăng ký tâm

Ăn xong ngủ trở lại = tâm trở lại trạng thái bhavanga yên tĩnh

Bài học thứ (1): Chính ở giai đọan này ( Javana) là quan trọng nhất vì tư tưởng quyết định biểu hiện thành hành động tốt hay xấu ( thiện hay bất thiện). Nếu quyết định đúng đắn thì tạo ra thiện nghiệp, nếu quyết định sai lầm thì tạo ra bất thiện nghiệp. Dù đối tượng xuất hiện có được yêu thích hay không, ta vẫn có thể tạo ra một tiến trình Javana thiện hay bất thiện theo ý muốn . Ví dụ như khi gặp người thù nghịch, sự giận dữ liền phát sinh ( tạo nghiệp bất thiện) ngoài ý muốn của ta , nhưng nếu ta có tu tập tỉnh thức, biết chế ngự tâm mình, thay vì nổi giận , ta có thể rải tâm Từ đến người ấy ( tạo thiện nghiệp) .

Bài học thứ 2: DTH dạy rằng trong tiến trình tâm, mỗi loại thường phát sinh trong 1,2, 3 chập tư tưởng, chỉ có tâm Javana phát sinh liên tiếp trong 7 chập lúc bình thường và 5 chập khi lâm chung và tất cả 7 chập đều cùng chung một đối tượng. Những tâm sở phát sinh trong 7 chập tư tưởng ấy đều giống hệt nhau, nhưng năng lực thì không đồng đều . có chập mạnh có chập yếu . Đó là lý do giải thích sự trổ sanh Quả của các Nghiệp theo thời gian, theo tác động, theo khả năng báo ứng v..v..

Bài học thứ 3: Ý thức (thức thứ 6) là lanh lợi hơn hết, suy nghĩ làm việc phải nó cũng đứng đầu mà tính toán mưu toan việc ác thì nó cũng là ‘số 1’ (‘công vi thủ , tội vi khôi’ = công cũng nó đứng đầu mà tộI nó cũng trước hết !) .Thức này cũng có công năng chấp ngã và chấp pháp .

Chỉ có Ý thức mới có khả năng soi sáng ,chuyển hoá Mạt Na Thức và Alaida thức. Nói cụ thể, Ý thức vừa phải đồng thời gieo trồng những chủng tử tốt, thiện vào tàng thức, vưà rửa sạch mọi ô nhiễm do si mê chấp thủ của mạt na bằng cách thông qua thân, miệng, mà ý thức có thể điều hành, sai khiến cái thấy, cái nghe v..v.. Do đó, nói cho đúng thì : chuyển hoá là phải chuyển hoá toàn diện hệ thống của tâm thức - cần có sự tương duyên giao hoà của cả 8 thức - chứ không phải chỉ riêng từng thức nào .

Bài học thứ 4:Trong 3 Cảnh, Ý thức có đủ 3 Cảnh ( tánh cảnh, độc ảnh cảnh & đới chất cảnh)

Trong 3 Tánh thức này cũng có đủ 3 tánh (Thiện, ác và vô ký )

Trong 3 Lượng, thức này cũng có đủ 3 lượng ( hiện lượng, tỷ lượng & phi lượng)

Nghiệp dụng của Thức này là làm cho Thân động, Miệng nói . . . tạo ra dẫn nghiệp và mãn nghiệp để cảm thọ quả báo trong hiện kiếp hay trong các đời sau .

Bài học thứ 5.Theo DTH, có một thức căn bản và 7 chuyển thức : Mạt Na cũng là một chuyển thức ; nó một mặt chấp Tàng thức làm ‘ ngã’ mặt khác nó chính là nền tảng cho sự nhiễm và tịnh của 6 chuyển thức trước ( nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân và Ý thức). Thật vậy, 6 chuyển thức trước luôn luôn liên hệ chặt chẽ với sự hiện diện của Mạt na, và Mạt na thì luôn luôn tác động lên 6 chuyển thức trước, với chức năng lưu chuyển ,đối lưu giữa chủng tử và hiện hành. Do đó, nếu sự cuồng si của Mạt na càng lớn thì khả năng sáng suốt của 6 chuyển thức trước càng nhỏ ; nói nôm na : cái tâm phân biệt càng lớn thì sự nhận thức vô tư trong sáng càng nhỏ , các sự vật, hiện tượng, màu sắc, âm thanh v..v.. sẽ bị méo mó, xuyên tạc, bẻ cong . . . Lúc ấy, mắt, tai . . . sẽ không chỉ là thuần túy phục vụ cho ‘cái thấy’ ‘cái nghe’. . . nữa mà còn m’ thêm cái tâm ưa - ghét, lấy - bỏ. Mạt na mà giải thoát được chừng nào (nghĩa là bớt cuồng si trong 4 thứ phiền não ) thì khả năng thanh tịnh sáng suốt của 6 chuyển thức trước càng lớn lên chừng ấy.

Bài học thứ 6: điểm khác biệt trong tính khí của Mạt Na và Alạida là: Alaida lấy Tánh Cảnh làm đối tượng thì Mạt na lấy Đới chất cảnh làm đối tượng ; một cách nôm na, Alaida nhìn sự vật hiện tượng ‘như -nó -là’ ( as - it -is) trong khi Mạt na nhìn với một hay nhiều cặp kính màu của si mê, chấp ngã . . . do vậy mà cái thấy của mạt na là sai lầm vì bị ngăn che .

Tính chất của Mạt na vừa là thẩm (reflecting) vừa là hằng( always )- nghĩa là vừa khảo sát, thẩm sát, vừa luôn luôn có mặt suốt 24/24 giờ một ngày ; luôn luôn so đo tính toán. Nói theo danh từ DTH thì Mạt na có tính hữu phú vô ký ; hữu phú = có bị ngăn che , Cái gì đã ngăn che ? Đó chính là 4 cái si mê của nó ( ngã si, ngã kiến, ngã mạn, ngã ái ). Vô ký= không thiện, không ác . Nói ngắn lại cho dễ nhớ : Mạt na là chấp ngã và khi duyên vào đối tượng nào thì chấp đối tượng đó làm ngã và sự chấp ngã như vậy là hoàn toàn sai lầm nên gọi là phi lượng ( wrong perception)

Bài học thứ 7: (vừa ôn lại những từ ‘ Cảnh, Tánh & Lượng’ trong bài trước : ) trong 3 Cảnh, Mạt na chỉ quan hệ với Đới chất cảnh

Trong 3 Tánh , Mạt na là hữu phú vô ký

Trong 3 Lượng Mạt na chỉ có Phi lượng

Bài học thứ 8: bài học này lại là một bài học về từ mới trong DTH . Trong bài trước chúng ta đã học 3 Cảnh, 3 Tánh và 3 Lượng . Hôm nay học thêm : 5 Thọ, 3 Cõi, 9 Địa , 9 Duyên.

5 Thọ là : Khổ thọ, Lạc thọ, Ưuthọ, Hỷ thọ và Xả thọ

3 Cõi ( = ta thường gọi là tam giới = Dục giớI, Sắc giới, Vô Sắc giới ) : cõi Dục ( realm of Desire) = thế giới của người và thú ( thế giới của dục vọng, ham muốn, thèm khát) ; cõi Sắc ( realm of Form) = thế giớI vật chất nhưng nhẹ nhàng thanh thoát hơn cõi Dục ; cõi Vô Sắc ( realm of No Form = thế giới phi vật chất, thế giới của năng lượng ( energy) . Tâm thức cũng là một dạng năng lượng ( mental energy).

9 Địa : a) Ngũ thú tạp cư điạ ( =thuộc về Dục giới)

b) Ly, sanh Hỷ lạc địa

c) Định, sanh Hỷ lạc địa (= 4 địa này thuộc Sắc giới

d) Ly hỷ, diệu lạc địa từ Sơ đến Tứ thiền )

e) Xả niệm thanh tịnh địa

f) Không vô biên xứ địa

g) Thức vô biên xứ địa ( = 4 Địa này thuộc Vô Sắc giới)

h) Vô sở hữu xứ địa

i)phi tưởng phi phi tưởng xứ địa

9 Duyên : Hư không, Ánh sáng, Căn, Cảnh, Tác ý , Phân biệt y, Nhiễm tịnh y, Căn bản y , Chủng tử .

Sau khi học được các từ của DTH, chúng tôi tự ra bài tập ở nhà cho ACE mình bằng cách lập bảng tóm tắt sau đây cho dễ nhớ 8 Thức đã biết, duyên với những món
nào :

Mắt Tai Mủi Lưỡi Thân Ý Mạt na AlaiDa

3 Cảnh

3 Tánh

3 Lượng

5 Thọ

3 Cõi

9 Địa

9 Duyên

Bài học thứ 9: Chúng tôi nhắc lại về sự khác nhau gây ra khó khăn ban đầu cho việc hoc DT , đó là chúng ta học TLH hiện đại ( Tây phương) chỉ biết 2 góc độ của 1 nhận thức : đó là Chủ thể ( Subject) và Đối tượng ( Object) nhưng khi học DT- tức Tâm Lý Học Phật Giáo ( cổ điển- Đông phương ) ta lại gặp đến 3 danh từ như đã học trong bài đầu tiên :

Kiến phần : chủ thể

Tướng phần : đối tượng

Tự thể phần : phần căn bản của thức làm nền cho chủ thể và đối tượng .

**** Lãy 1 ví dụ cụ thể : nước là kiến phần, sóng là tướng phầnvà tính ướt, loãng, không màu không mùi (hay hợp chất H2O ) là tự thể phần.

Tương tự, trong hệ thống 8 thức, mỗi Thức đều có đầy đủ cả 3 phần và ở mặt ‘tướng’ thì có 3 nhưng ở mặt tổng thể chỉ là Một - như nước và sóng hay H20 vậy.

Dù đã qua 3 buổi học ,nhưng ACE chúng tôi vẫn thấy như là ‘ cởi ngựa xem hoa’ - chưa thể nói là biết được chút gì về Duy Thức cả, nên để kết thúc buổi học ,chúng tôi luôn nhắc nhau rằng dây chỉ là phần học Chúng, học tập thể, học để lấy cái hăng hái ban đầu nhờ sự sách tấn của Tăng thân của mình , về sau mỗi người đều phải tự học thêm ,đặc biệt về DTH thì phải học kỹ 30 bài tụng DT cũng như phần giảng giải của Thầy Thiện Hoa ( PHPT khóa IX, X và XI ) - và ACE chúng tôi cũng đã có kinh nghiệm tự thân là cùng một bộ Kinh, mà học năm nay khác và sang năm khác : có thể chúng ta sẽ thấy thêm được nhiều bài học mới hơn mà năm ngoái chưa nhận ra được .


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/11/2015(Xem: 9287)
Nicolas sinh năm 1989. Em còn trẻ, còn rất trẻ. Tương lai của em là phía trước. Những ngày này em thực hành thiền cùng chúng tôi tinh tấn lắm. Em rất hay chạy bộ vào rừng. Ngày nào em cũng chạy. Hôm qua em bảo tôi lập 1 nhóm các thiền sinh chạy gần quanh đây, chạy quãng một vài trăm km thôi để gắn kết hơn, để hiểu và thương nhau hơn, để cùng bên nhau. Tôi giật mình – thế là được thiền chạy đấy em nhỉ. Khi tôi hỏi trong những cuốn sách về thiền đã đọc, em thích cuốn nào nhất, em nói ngay đó là “Buddha teaching” của thầy Thích Nhất Hạnh. Em đọc lần đầu tiên năm 2006.
12/11/2015(Xem: 9388)
Dưới đây là một bài thuyết giảng của nhà sư Ajahn Chah trước một cử tọa gồm các tỳ kheo Tây Phương, các sa di và cả người thế tục, và đặc biệt là dành cho cha mẹ của một tỳ kheo người Pháp sang thăm con xuất gia ở Thái Lan vừa được thụ phong tỳ kheo. Buổi giảng được tổ chức tại ngôi chùa Wat Pah Pong của nhà sư Ajahn Chah trên miền bắc Thái, vào ngày 10 tháng 10 năm 1977.
12/11/2015(Xem: 11502)
Đây là bài Pháp luận có Chủ đề: Tại Sao Giới Trẻ Ít Đến Với Đạo Phật? do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hoa Kỳ và Canada tổ chức trong KHÓA TU HỌC PHẬT PHÁP BẮC MỸ LẦN V tại San Diego, CA từ ngày 6 đến ngày 10, tháng 8 năm 2015. Thuyết trình đoàn gồm có Thượng Tọa Thích Hạnh Bình, Thượng Tọa Thích Nhật Trí, Ni Sư Thích Thiền Tuệ, Cư Sĩ Quảng Thành Bùi Ngọc Đường, và cá nhân tác giả. Đây là phần thuyết trình của chúng con / chúng tôi. Nếu có chút vụng về gì trong khi truyết trình hay viết thành văn, kính mong quý Ngài và quý vị niệm tình mà tha thứ cho.
12/11/2015(Xem: 10714)
Chiều ngày 30 tháng 10 năm 2015 (18/09 năm Ất Mùi) tại chùa Huyền Không Sơn Thượng, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế đã diễn ra buổi lễ hành chính dâng Y Kathina do Phái đoàn Đại diện Quốc Vương Thái Lan cúng dường. Phái đoàn Đại diện Vương Quốc Thái Lan có ông Prả-chuộp Chằy-yả-xán - Nguyên Bộ trưởng Ngoại giao, Chủ tịch Hội hữu nghị Thái - Việt, Đại diện Quốc Vương Phu-mí-phôn Á-đul-yá-đệt và Hoàng gia Thái Lan; cùng các thành viên, các Phật tử Thái Lan tháp tùng trong phái đoàn.
12/11/2015(Xem: 8327)
"...Các con hy sinh một chút xíu, dễ thương một chút, nhẫn nhịn một chút xíu thì ngay trong đời sống này các con đang tập luyện một đức tính của ngọc." Hôm nay Thầy sẽ nói chuyện với các con về đề tài "Đá biến thành ngọc". Sao gọi là đá biến thành ngọc? Thầy mới đọc một cuốn sách và chính cuốn sách đó gợi ý cho Thầy buổi nói chuyện với các con hôm nay. Trong đó, tác giả đưa ra một hình ảnh rất bình thường, cụ thể về một hòn đá sỏi, lăn lóc vô tri giống như là một hòn đá màu xanh mà mình đi đạp thường ngày và không ai để ý tới nó.
11/11/2015(Xem: 9776)
Đừng mất thì giờ phân định việc thị phi cho rành mạch đen trắng trong khi tất cả đều chỉ là tương đối trong tục đế mà thôi. Cái đúng với người này có thể sai với người khác, cái phải ở chỗ kia có thể trái ở nơi nọ, cái đang đúng lúc này không hẳn sẽ đúng về sau v.v...*
08/11/2015(Xem: 7257)
Một hôm, sau bữa ăn sáng, thầy Pháp Sứ hỏi tôi có bận gì chiều nay không. Tôi nói rằng không. Thế rồi thầy bảo “Quý thầy đợi chú lúc 15h ở bãi đỗ xe gần tăng xá”. Tôi gật đầu nhận lời.
07/11/2015(Xem: 9582)
Dưới đây là một bài thuyết giảng của nhà sư Ajahn Sumedho vào mùa kiết hạ năm 1994 tại ngôi chùa Amaravati do chính ông thành lập ở Anh Quốc. Ajahn Sumedho là một người Mỹ (tên thật là Robert Jackman), sinh năm 1934, và là đệ tử của vị đại sư Thái Lan Ajahn Chah (1918-1992). Ông hoằng pháp ở Anh từ năm 1977 và đã thành lập nhiều ngôi chùa tại Anh quốc.
07/11/2015(Xem: 8895)
Cách đây nhiều năm trong một chuyến công tác ở Moscow - Liên bang Nga, ông chú tôi, một quan chức trong ngành điện lực, sau cuộc hội thảo chuyên môn, giờ giải lao, một cán bộ cấp cao, một nữ phó tiến sĩ người Nga tâm sự: “Các anh may mắn hơn chúng tôi, các anh có niềm tin vào tôn giáo hay một thứ tín ngưỡng nào đó, còn chúng tôi, sau khi Liên Xô và khối xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Đông Âu tan rã, chỉ còn sự trống rỗng, hầu như chúng tôi chẳng biết tin vào điều gì bây giờ!”. Ở các nước phát triển, nhiều người tìm đến với Phật giáo vì đó là lối sống có thể ứng dụng mọi lúc mọi nơi, đem lại lợi ích thiết thực cho mình, cho người, cho môi trường..
06/11/2015(Xem: 12814)
Từ ngã ba trước trụ sở thị xã Ninh Hòa, rẻ về tay trái đi theo quốc lộ 26 hướng về Ninh Phụng, đi khoảng 3km đến quán Bảy Búa, rẻ phải theo hương lộ Ninh Phụng - Ninh Thân đi khoảng 500m nửa là đến chùa cổ tich Linh Quang (thôn Xuân Hòa, xã Ninh Phụng, Ninh Hòa).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]