Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Pháp Thoại Trong Đàn Lễ Khánh Tạ Mộc Bản Khắc Chú Lăng Nghiêm

09/09/201819:37(Xem: 5152)
Pháp Thoại Trong Đàn Lễ Khánh Tạ Mộc Bản Khắc Chú Lăng Nghiêm

PHÁP THOẠI

trong đàn LỄ KHÁNH TẠ MỘC BẢN KHẮC CHÚ LĂNG NGHIÊM

Người giảng: Đại Đức Thích Vân Pháp

                    Phiên tả:
Buddha_2

Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Nam mô Lăng Nghiêm Hội Thượng Phật Bồ Tát.

Nam mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát Ma Ha Tát.

Nam mô Bát Nhã Hội Thượng Phật Bồ Tát Ma Ha Tát tác đại chứng minh.

Nam mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật.

Ngưỡng bạch chư Tôn Trưởng Lão Hòa Thượng chứng minh đàn tràng.

Ngưỡng bạch chư Tôn Hòa Thượng, chư Thượng Tọa, Đại Đức, Tăng Ni.

Kính thưa chư Tôn Thiền Đức trú xứ chùa Pháp Vân, thành phố Đà Nẵng.

Kính thưa Đại Đức Thích Minh Thế, cùng toàn thể quý phật tử, quý gia đình, quý thiện nam tín nữ có mặt trong đạo tràng ngày hôm nay.
IMG_3490

Chúng tôi thay lời chư Tôn Hòa Thượng, chư Thượng Tọa, Đại Đức, Tăng Ni trong đàn tràng để ngồi ở đây, chia sẻ vài lời Phật pháp, những điều mà chúng tôi đã học, đã biết, đã tu đến với quý vị trong đạo tràng, cũng như quá cố chư vị hương linh đang có mặt trong đàn tràng vô cùng trang nghiêm này.

Chúng tôi cũng xin thay lời cho chư Tôn Thiền Đức Tăng Ni vô cùng tán dương việc làm ý nghĩa của Đại Đức Thích Minh Thế. Bởi vì đây là một công việc hoằng pháp vô cùng lợi lạc, không chỉ lợi lạc trong một đời mà lợi lạc trong nhiều kiếp. Trong rất nhiều vị tu sĩ trẻ, Đại Đức Thích Minh Thế đã làm được công việc mà chính bản thân chúng tôi cũng ao ước, cũng mong muốn có được công hạnh như thế này. Và hôm nay, tâm nguyện của Đại Đức Thích Minh Thế đã hoàn thành, với sự trợ duyên của rất rất nhiều các thiện nam tín nữ, các gia đình phật tử. Quý vị, với tâm chí thành, chí kính, hộ trì Tam Bảo, hộ trì Chánh Pháp để đem lại những điều lợi lạc như thế này. Đó là một việc làm mà phước đức không chỉ đơm hoa kết trái trong một đời này, mà phước ấy sẽ lan tỏa và đơm hoa kết trái trong nhiều đời nhiều kiếp về sau. Chúng tôi tán dương công đức của việc làm ấy của thầy trò thầy Thích Minh thế trong ngày hôm nay.
IMG_3487

Như toàn thể đạo tràng của chúng ta thấy, trước mặt của quý vị là những bộ kinh, bài chú: chú Đại Bi được đặt ở bên phải của đàn tràng, chú Bát Nhã được đặt ở bên trái của đàn tràng; phía sau của chúng ta là năm đệ Lăng Nghiêm mà chư Tăng Ni các chùa thường trì tụng vào mỗi sáng, có ý nghĩa rất lớn trong thiền môn. Và thầy Minh Thế đã dùng hết tâm, dùng hết lòng vì đại nguyện này. Và cũng với  đại nguyện này, mà quý vị có mặt ngày hôm nay, quý vị được nương vào Pháp hội này để được phước đức, được lợi lạc.
IMG_3494

Vậy thì khi đề cập tới thần chú Lăng Nghiêm, chúng ta phải đề cập tới câu chuyện rất thú vị.

Kính thưa quý vị, sở dĩ có thần chú Lăng Nghiêm mà chư Tăng trì tụng mỗi ngày vào buổi sáng sớm, là từ câu chuyện của ngài A Nan. Ngài A Nan là em trai chú bác với Đức Phật, ngài A Nan có tên gọi Khánh Hỷ, vì khi ngài sinh ra, đem niềm vui cho hoàng tộc nên có tên là Khánh Hỷ. Ngài là em của Thái tử Tất Đạt Đa, con của Bạch Phạn Vương, còn Thái tử Tất Đạt Đa là con trai của vua Tịnh Phạn Vương. Tịnh Phạn Vương và Bạch Phạn Vương cũng là anh em với nhau. Sau khi Đức Phật thành đạo, Ngài trở về Ca Tỳ La Vệ, để thăm hoàng cung, thăm gia đình, với dung mạo, uy nghi, với cử chỉ bình an và thảnh thơi toát lên từ Đức Phật, tất cả mọi người trong hoàng cung đều bị chinh phục với uy nghi sáng ngời của Đức Thế Tôn. Cho nên Ngài A Nan cùng với các vương tử khác cũng muốn đi theo con đường mà Đức Phật đã đi. Và sau đó có ngài A Nan cùng anh trai là Đề Bà Đạt Đa cùng các vị vương tử khác, đã xin đi theo Đức Phật, gia nhập giáo đoàn để tu tập.

 Quý vị biết, ngài A Nan đẹp trai lắm, lại tuấn tú và rất dễ thương, cho nên được các thầy trong tăng đoàn yêu mến, và chính sự yêu mến đó, ngài A Nan được cử làm thị giả của Đức Phật (thị giả là người hầu Đức Phật, chăm sóc cơm nước cho Đức Phật). Khi Ngài A Nan được cử là thị giả của Đức Phật, nhưng ngài A Nan là em của Đức Phật, ngài tế nhị lắm, nên khi nhận làm thị giả cho Đức Phật, ngài xin Đức Phật mấy điều để tránh sự dị nghị trong giáo đoàn.

Ví dụ như khi Đức Phật được cúng dường y, Đức Phật có cho thầy A Nan thì Ngài cũng không được nhận. Khi Đức Phật được cúng dường thức ăn, thì ngài A Nan cũng không được sử dụng thức ăn đó; không được ngủ cùng chung tịnh thất với Đức Phật; Không được đi chung khi có lời thỉnh Đức Phật đến nhà phật tử để thọ trai. Rồi ngài A Nan còn nói, những chỗ nào mà biệt thỉnh thì ngài A Nan xin đi, mong Đức Phật hoan hỉ; những vị khách nào muốn gặp Đức Phật thì hoan hỉ cho ngài A Nan dẫn vào để thỉnh Đức Phật; những điều nào mà ngài A Nan nghi ngờ, cũng xin Đức Phật hoan hỉ chỉ dạy cho ngài A Nan. Rồi những bài pháp nào mà ngài A Nan không được tham dự, vắng mặt thì cũng xin Đức Phật hoan hỉ nói lại cho ngài A Nan nghe. Đó là những điều mà Tôn giả A Nan xin Đức Phật trước khi làm thị giả, để tránh sự dị nghị trong tăng chúng.

IMG_3500

Dễ thương như thế, đẹp trai lắm thưa quý vị, lại còn đa văn học rộng, hiểu nhiều, trí nhớ phi phàm, cho nên những lời dạy của Đức Phật trong suốt thời gian 25 năm, ngài A Nan khi làm thị giả cho Đức Thế Tôn, không một bài pháp nào mà ngài không nhớ. Vì vậy mà trong kinh Lăng Nghiêm, Bồ Tát Văn Thù có khen ngài A Nan rằng:

“Tướng như thu mãn nguyệt,

Nhãn tợ thanh liên hoa,

Phật pháp như đại hải,

Lưu nhập A Nan tâm.”

(Tướng như trăng thu đầy,

Mắt biếc tợ sen xanh,

Phật pháp rộng như biển,

Rót vào tâm A Nan.)

Ngài Văn Thù đã khen như thế, tại vì ngài A Nan vừa trẻ, vừa đẹp, vừa dễ thương, vừa giỏi, vừa có trí nhớ phi phàm, ngài A Nan lại là một trong mười người đệ tử giỏi nhất của Đức Phật.

Ngài Xá Lợi Phất là giỏi nhất về trí tuệ,

Ngài Mục Kiền Liên giỏi nhất về thần thông,

Ngài Ca Diếp là giỏi về đầu đà, tu khổ hạnh,

Ngài Phú Lâu La là giỏi về thuyết pháp,

Ngài Ca Chiên Diên là giỏi về nghị luận,

Ngài Tu Bồ Đề là giỏi về giải thông,

Ngài A Na Luật là giỏi về thiên nhãn, tức là thấy xa,

Ngài Ưu Bà Ly là giỏi về trì giới trì luật,

Ngài La Hầu La là giỏi về mật hạnh,

Và Ngài A Nan Đà là giỏi về học rộng hiểu nhiều. Đó là mười người đệ tử giỏi nhất của Đức Phật, và ngài A Nan được xếp vào một trong mười đệ tử giỏi nhất của Đức Phật thời đó.

Cho nên quý vị thấy là, đẹp, giỏi, thông minh, học rộng, hiểu nhiều, trí nhớ phi phàm, dung mạo đoan trang; khi còn vương tử Ngài A nan đã đẹp rồi, đã tuấn tú như vậy rồi, mà vào chùa cạo đầu đắp y, cử chỉ, dung mạo nhẹ nhàng thanh thoát, đi đâu cũng được mọi người yêu quý. Ở trong giáo đoàn được các thầy các sư cô quý mến vô cùng, khi đi ra ngoài thì được dân chúng và phật tử quý mến, yêu kính nhiều, mà được quý mến, yêu thương nhiều cũng khổ chứ không phải không đâu. Sở dĩ các sư cô thương ngài A Nan, bởi vì các sư cô được ngài A Nan xin Đức Phật, cầu thỉnh Đức Phật để đi tu. Nếu không có ngài A Nan cầu thỉnh Đức Phật để đi tu thì không có Ni bộ như bây giờ. Cho nên vì lòng thương của ngài A Nan, cầu thỉnh Đức Phật và được Đức Phật chấp thuận sau 3 lần cầu thỉnh thì giới nữ Ni đoàn mới được thành lập. Vì vậy, Ngài A Nan rất có công với các Sư Cô nên được các Sư Cô quý mến, thương yêu vô cùng, có thức ăn ngon cũng mời, có y đẹp cũng cúng dường….

IMG_3502

Kính thưa quý vị, kính thưa đạo tràng, ngài A Nan, với dung mạo uy nghiêm như thế, đi khất thực, đi hoá độ, đều lọt vào tầm ngắm của các cô nương. Cho nên khi đi hoằng pháp một mình, ngài đã vấp phải một tai nạn. Có một cô gái tên là Ma Đăng Già thầm thương trộm nhớ, mất ăn bỏ ngủ vì đẹp, vì dễ thương, vì uy nghi, vì sự thảnh thơi, cô đó tìm cách để chiếm hữu Ngài. Khi mà thích rồi thì muốn có được, khi mà thích rồi thì muốn chiếm hữu, và chính cái này là cái nạn, là cái khổ của chúng sinh. Cho nên ngài A Nan bị gia đình cô Ma Đăng Già bày chiêu trò, dùng bùa chú để ngài A Nan không thể thoát được. Một lần, vua Ba Tư Nặc, sau ba tháng an cư kiết hạ thì đã thỉnh Phật đến hoàng cung để cúng dường trai phạn. Trong khi ấy cũng có các vị trưởng giả họ cũng muốn thỉnh tăng đoàn đến thọ trai. Đức Phật mới chia ra, ai đi tới hoàng cung thọ trai thì đi, ai đi tới các gia đình các trưởng giả mà được cầu thỉnh để thọ trai thì đi. Trong khi đó ngài A Nan lại được hai mẹ con Ma Đăng Già thỉnh riêng rồi, cho nên ngài A Nan không đi cùng với Đức Phật, không đi cùng với các thầy khác mà đi một mình đến nhà đó. Khi vào nhà đó, ngài A Nan bị hai mẹ con Ma Đăng Già sử dụng bùa mê gọi là bùa tình yêu để mà trói buộc, để mà sập bẫy ngài A Nan. Trong khi đang trong giai đoạn bị sập bẫy như thế, ngài A Nan vô cùng lo lắng, sợ hãi. Khi vô cùng lo lắng sợ hãi như vậy, tâm của ngài A Nan chỉ nhớ tới Đức Phật mà thôi. Và trong tâm niệm luôn mong muốn cầu thỉnh Đức Phật nghĩ tới, xót thương và cứu nạn cho ngài.

Khi ấy Đức Phật cũng biết, như mọi khi sau khi thọ trai xong, Đức Phật sẽ thuyết pháp cho họ một bài pháp trước khi về tịnh xá để nghỉ ngơi, thì hôm đó Đức Phật không thuyết pháp như thường lệ, Đức Phật trở về tịnh xá liền, đi vào ở trong tịnh thất, ngồi thiền, nhập định và trên đỉnh của Ngài phóng ra vô số hào quang, trên mỗi hào quang ấy đã hoá hiện hàng ngàn Đức Phật hoá thân ngồi kiết già như thế, bên cạnh đó còn có các vị Kim Cang, Mật Tích yểm trợ. Và cứ thế, hào quang như vậy, khi Đức Phật nói thần chú ấy ra thì từng hoa sen cứ hoá hiện vô số trên không trung, như bài tựa kinh Lăng Nghiêm có nói mà chúng tôi diễn giải tóm tắt ra tiếng Việt cho quý vị hiểu. Ở trong kinh Lăng Nghiêm nói, Đức Phật sai Bồ Tát Văn Thù đem bài chú này đến chỗ gia đình của Ma Đăng Già để giải trừ cái bùa yêu đó cho ngài A Nan, cứu ngài A Nan trở về. Và bài chú đó gọi là chú Lăng Nghiêm, giải trừ được nạn cho ngài A Nan.

Ngài A Nan được thoát nạn, quay trở về đành lễ Đức Phật, khóc lóc vô cùng, rồi sau đó Đức Phật gọi cô Ma Đăng Già đó đến, giáo hoá thuyết pháp, độ cô đó xuất gia tu tập. Ngài A Nan thấy mình may mắn, thoát được tai nạn khủng khiếp như thế, nên vô cùng cảm mến Đức Phật, và đảnh lễ xin Đức Phật giảng giải thêm để cho ngài A Nan cũng như đại chúng hiểu thêm về ý nghĩa của thần chú Lăng Nghiêm, nên Đức Phật đã giải thành kinh Lăng Nghiêm. Chú Lăng Nghiêm có trong kinh Lăng Nghiêm, và hôm nay chúng ta may mắn được đến chiêm ngưỡng bộ kinh quý báu này, phước báu lắm quý vị.

Ở Trung Quốc quý vị biết, có một vị gọi là Thiên Thai Trí Giả, nghe nói ở bên Ấn Độ có bộ kinh này, chưa thấy được bao giờ, nghe nói thần lực vô cùng, Ngài tha thiết, quay về hướng Tây Trúc ngày nào cũng đảnh lễ trong 18 năm như thế để mong được thấy kinh chú Lăng Nghiêm, 18 năm như thế quý vị à. Cho nên, có những vị chưa bao giờ biết tới mà hôm nay có nhân duyên tốt đẹp thù thắng, ngồi trong đạo tràng này, để đảnh lễ, để chiêm bái bộ kinh uy lực, quý báu như thế, đó là phước báu của mình, đó là phước báu của tổ tiên mình, mà nhân duyên ấy là từ Đại đức Thích Minh Thế. 

Thưa quý vị, không những thế, khi mà người ta biết được uy lực của chú Lăng Nghiêm lớn lao, có sức mạnh dẹp tan được ma quân, dẹp tan được yêu pháp, đẩy lùi được ma chướng, cho nên các vị vua chúa thời đó ở Ấn độ họ coi như là quốc bảo, không cho mang ra để lãnh thổ, nếu như ai mang ra, xem như là phạm pháp. Một vị thiền sư Ấn Độ, tên là Bát Lạt Mật Đế, mong muốn được đưa bộ kinh này mang cho các vùng khác được thừa hưởng, thêm công đức. Vì thế Ngài mới tìm cách đưa ra khỏi Ấn Độ, nhưng mà không được. Sau đó, Ngài lại tìm một cách là xẻ thịt nơi cánh tay của mình, viết bài kinh đó bằng chữ nhỏ lại trên giấy mỏng, rồi bôi sáp cuộn vào một mảnh vải lụa nhỏ mềm, bọc vào rồi cuộn nhỏ bỏ vào trong bắp thịt tay của mình để mang đi. Cho nên, bài kinh đó khi đem tới Trung Quốc thì nó bị dính một số chữ, một số trang bị dính máu, nên người ta gọi là Huyết Tý Kinh, tý là cánh tay, huyết là máu.

Kính thưa quý vị, uy lực của thần chú Lăng Nghiêm vô cùng lớn:

Thứ nhất là Tức Tai pháp, có nghĩa là giải trừ tai ương, ở đâu có thần chú Lăng Nghiêm, thì ở đó giải trừ được mọi tai ách, tiêu trừ được mọi tai ách. Đó là uy lực thứ nhất mà trong thần chú Lăng Nghiêm có được.

Uy lực thứ hai là Hàng Phục Pháp, tức là ở đâu có chú Lăng Nghiêm, ở đâu có kinh Lăng Nghiêm, thì ở đó hàng phục được ma đạo, hàng phục được những chúng sinh, những ma quân quấy phá, quấy nhiễu thế gian, quấy phá chánh pháp.

 Uy lực thứ ba của kinh Lăng Nghiêm là Thành Tựu Pháp, ở đâu có kinh Lăng Nghiêm, ở đâu có chú Lăng Nghiêm, mà mọi người trì tụng, trì niệm, phụng thờ, thì ở đó thành tựu các công đức, các phước đức.

Uy lực thứ tư là Câu Triệu Pháp, ở đâu có kinh Lăng Nghiêm, ở đâu có chú Lăng Nghiêm, có người trì tụng kinh chú Lăng Nghiêm, thì ở đó câu triệu được những điều thiện lành.

Uy lực thứ năm là Tăng Ích Pháp, ở đâu có người trì tụng kinh chú Lăng Nghiêm, thì ở đó tăng thêm được những điều lợi lạc cho mình, cho người, cho nơi mà mình đang cư trú. Đó gọi là năm điều uy lực, lợi lạc mà người trì tụng kinh Lăng Nghiêm và chú Lăng Nghiêm có được, thưa quý vị.

Thưa đại chúng, vừa rồi tôi đã chia sẻ với quý vị một vài điểm nguyên nhân ra đời của kinh, của thần chú Lăng Nghiêm và uy lực của thần chú Lăng Nghiêm, được chư Tổ, chư Tăng, Ni, quý thầy hoằng dương, trì tụng và tôn thờ như thế nào. Vậy thì là người con Phật, như quý vị biết, Ngài A Nan cũng gặp chướng duyên, ngay cả ngài Huyền Trang, đi cầu pháp từ Trung Quốc qua Ấn Độ cũng gặp nhiều chướng duyên, ma chướng. chúng ta trong đời sống tu tập của mình cũng gặp nhiều chướng duyên, cũng gặp nhiều ma chướng. Cuộc sống của con người lại càng gặp nhiều ma chướng, càng gặp nhiều chướng duyên hơn, vậy thì mình phải làm gì để vượt qua chướng duyên, ma chướng ấy, để cuộc sống của đời mình hạnh phúc, bình an hơn; con đường tu tập của mình thuận hơn, sớm đưa tới thành tựu những kết quả tốt đẹp hơn.

Đức Phật vào thế giới năm trược này, và ngài A Nan cũng phát nguyện theo Đức Phật vào thế giới này để hoá độ. Cho nên trong tựa chú Lăng Nghiêm nói: " Ngũ trược ác thế, thệ tiên nhập". Thấy cuộc đời này có nhiều chướng duyên quá, thấy cuộc đời này có quá nhiều ma chướng, có quá nhiều điều bất như ý, cho nên Ngài mong muốn vào thế giới này để giúp chúng sinh tu tập, vượt qua được ma chướng, vượt qua những chướng duyên như mình đã từng được gặp thử thách, chướng nạn. 

Năm trược trong cuộc đời Đức Phật gọi là năm điều dơ bẩn.

Điều thứ nhất là kiếp trược, là kiếp số của con người sinh ra trong thế giới này càng ngày càng giảm dần, giảm cho tới khi nào con người còn mười tuổi, và những tai nạn, bệnh tật, đói nghèo nó đến thường xuyên, khi ấy thế giới này sẽ hoại diệt và có Đức Phật khác sẽ xuất hiện. Kiếp trược là kiếp số con người ô uế, cho nên nếu ai mà sống trong này thì có nhiều điều bất như ý lắm, muốn sống lâu mà không được sống lâu, muốn giàu không được giàu,….

Kiến trược là sự thấy biết không đúng đắn, ô uế; sự thấy biết thiên lệch, sự thấy biết mê mờ, mê tín dị đoan….

Trong thế giới ngũ trược ấy, cái thứ ba gọi là phiền não trược; thế giới này đầy rẫy những thứ phiền não, tham dục, sân hận, si mê, và chính vì những điều phiền não ấy là chướng ngại cho hạnh phúc, bình an của mình, chướng ngại cho con đường tu tập của mình, chướng ngại cho việc tạo phước của mình. Cho nên những ai đang sống trong thế giới này, không nhiều thì ít đều bị phiền não chi phối, đều bị tham dục chi phối, đều bị sân hận chi phối, đều bị si mê chi phối, đều bị cố chấp, ngạo mạn, kiêu căng, tự cao chi phối, làm cản trở cho hạnh phúc, cho bình an, cho con đường tu tập của mỗi chúng ta. Vì thấy được điều đó, cho nên Ngài A Nan mới vô đây để hoá độ chúng sinh trong cuộc đời này.

 Cái thứ tư trong ngũ trược, đó chính là chúng sinh trược. Con người sống với nhau, chúng sinh sống với nhau mà bằng mặt mà không bằng lòng, cố chấp, bảo thủ, thương trước mặt mà ghét sau lưng, tốt trước mặt mà xấu sau lưng, đối xử với nhau không dễ thương, thậm chí đối với người cha, người mẹ, người anh, người em của mình cũng như thế, đánh mất tình thân, đánh mất đi những ý nghĩa cao đẹp của cuộc sống “Thấy cha như thấy nợ, thấy mẹ như thấy khách”, vong ơn, bội nghĩa, “đặng cá quên nơm, đặng chim bẻ ná, quên ơn sinh thành”, đó gọi là chúng sinh trược. Đến với nhau, đối xử với nhau, không dễ thương, không đẹp, mà có sự vẩn đục, ô uế ở trong đó cho nên gọi là chúng sinh trược.

Cái thứ năm trong ngũ trược mà ngài A Nan muốn vào đây để hoá độ, để mong muốn chúng sinh vượt qua được để tu tập, để đi tới giải thoát, đó là nuôi sống thân mạng của mình, không dễ thương, không đúng đắn, tà bậy nên gọi là uế, là trược.

Vì những điều như thế, ô uế như vậy, nó đầy rẫy trong thế giới ta bà này: Tốt có, xấu có, thiện có, ác có, đen có, trắng có, sáng có, tối có, cho nên Đức Phật, Ngài Tôn giả A Nan mới vô đây, mới vào chỗ này, để giúp cho cuộc đời biết yêu thương nhau, sống với nhau hiểu biết hơn, thương yêu hơn, sống nhẹ nhàng hơn, đoàn kết hơn, đẹp hơn, vươn tới những cái tốt cao quý hơn. Nếu chúng sinh ở đây mà dễ thương rồi, chắc chắn ngài Tôn giả A Nan không phát lời thệ nguyện vào cõi khổ này làm gì.

Kính thư toàn thể đại chúng, ma chướng là những chướng duyên cho con đường, cho cuộc sống của chúng sinh, cho hàng Phật tử xuất gia và tại gia của chúng ta. Ở đâu có ma chướng, ở đâu có chướng duyên thì ở đó có những trở ngại. Chính những trở ngại ấy khiến cho hạnh phúc, bình an của chúng ta gặp chướng ngại. Chính những chướng duyên, chính những ma chướng, khiến cho đời sống tu tập của chúng ta khó khăn hơn, trắc trở hơn và càng tu sẽ phải đối mặt với nhiều chướng duyên bấy nhiêu thưa quí vị. Như một ngôi nhà mà mình muốn cho nó đẹp, thì mình phải xây lại, phải đập ra để làm cho mới. Trong quá trình để đập ra làm cho nó đẹp, nó mới thì phải hứng chịu bụi bặm, những phiền não nó ập tới, những suy tính đắn đo nó đến thì con đường tu học của mình cũng vậy, hạnh phúc của chúng ta cũng thế, không đơn giản nó đến một cách thuận duyên như vậy đâu. Cho nên càng xới đất bao nhiêu thì lại càng bụi bấy nhiêu. Càng xới tâm bao nhiêu thì phiền não trong tâm sẽ có mặt bấy nhiêu. Tại vì sao lại như vậy? Bởi vì trong tàng thức của chúng ta có chứa vô vàn các phiền não, không biết bao nhiêu là hạt giống tốt, xấu, thiện, ác, ở trong tàng thức đó. Vậy bây giờ mình tu học, là làm cho nó ngăn nắp trở lại, nó đẹp trở lại, bắt buộc mình phải có thời gian để sắp xếp. Mình muốn sắp xếp một cái phòng cho ngăn nắp, thì mình phải sắp đúng vị trí, cho nó đẹp, có nghệ thuật. Cái tâm của mình muốn đẹp cũng vậy, cũng phải sắp xếp lại, phải chấp nhận những khó khăn, phải chấp nhận ma chướng, chấp nhận nghịch cảnh, để tôi luyện tâm. Cho nên các vị Bồ tát hành đạo, Chư Tổ chấp nhận chặt tay để cúng dường Tam Bảo, đốt thân để cúng dường Tam Bảo, dầm mưa dãi nắng, phơi mình giữa mưa, giữa tuyết sương để cầu đạo, cầu pháp. Có những vị Tổ sư đã vào núi, bị cọp, bị beo nó đe doạ, nhưng mà không sợ, đó là vì sao, vì tâm cầu đạo, tâm cầu giải thoát. Vì đưa tới hạnh phúc, an lạc, vì đưa tới giải thoát, nên ta phải chấp nhận ma chướng đó.

Những ma chướng, những chướng duyên trong cuộc sống hằng ngày đó là Ngũ dục: Đó là tài, sắc, danh, thực, thụy, mà Đức Phật gọi là năm ham muốn.

Con người khi sinh ra giữa cuộc đời, khó mà vượt qua được, cho nên nó là ma chướng, nó là chướng ngại. Sống cũng chướng ngại, mà chết cũng chướng ngại, sống không giải thoát, an vui, chết cũng không giải thoát. Vậy thì, năm điều đó tại sao đưa tới các chướng duyên, chướng ngại, để đưa đến luân hồi sinh tử, bao kiếp nay.

-Tiền tài, ai cũng thích, “tiền là tiên là Phật, là sức bật lò xo…”, chắc ai cũng biết, cho nên tiền tài ở thế gian này là một miếng mồi khó cưỡng.

Nhưng, tiền vốn nó không thiện, không ác, không tốt không xấu, mà xấu hay tốt là người sử dụng cái đó, sử dụng như thế nào để có phước đức, để có công đức, sử dụng như thế nào mà nó đem tới an lạc. Tiền nó có một hấp lực, cho nên chúng sinh chạy theo, đua đòi, tìm kiếm; dù giàu hay nghèo, dù sang hay hèn, đều bị nó chi phối, và đó là nguyên nhân khiến cho mình chướng ngại trên con đường kiếm tìm hạnh phúc. Và thưa quý vị, quý vị thấy có chướng ngại không? Chắc chắn là có. Cái gì chướng ngại thì cái đó là ma chướng, mà đã là ma chướng thì phải cầu thỉnh ngài A Nan; có ma chướng thì phải trì tụng kinh Lăng Nghiêm,  Chú Đại Bi, Chú Bát Nhã, các kinh chú để giải trừ các ma chướng, đối với lòng tham, đối với vị ngọt của đồng tiền. 

Chúng ta, chúng sinh, chư vị hương linh đang có mặt ở đây, cùng đã từng nhiều đời, nhiều kiếp bị ham muốn tiền tài làm trở ngại cho sự giải thoát, và bị luân hồi sinh tử. Cho nên hôm nay, với cơ hội như thế này, để mình nhận ra được giá trị nào là giá trị tâm linh, tu tập để đi tới con đường cao đẹp hơn, giải thoát, an vui cho mình. Những lời Đức Phật, các vị Tổ sư chỉ bảo, không bao giờ là sai. Và tất cả những điều đó là chân lý, là chúng sinh đã từng nếm trải, đã từng khổ đau, đã từng lăn lốc trong đau khổ. Vậy nên, ham muốn bị chi phối bởi vật chất, tiền bạc, làm nô lệ cho nó thì sẽ bị ngăn cản con đường tu học của mình, con đường hạnh phúc và bình an của mỗi chúng ta.

-Cái thứ hai là sắc dục. Sắc dục là một chướng ngại lớn cho con đường hạnh phúc, cho con đường giải thoát, an lạc của mình. Cho dù sống hay chết mà chưa đoạn ái dục thì bị các chướng duyên này chi. Vì sao như vậy?! Chúng tôi kể cho quý vị nghe một câu chuyện như thế này.

Thời Đức Phật còn tại thế, có một cô gái sinh ra ở một ngôi làng, cực kỳ xinh đẹp và gia đình đó chỉ sinh mình cô đó thôi, không muốn sinh thêm nữa, cho nên cô trở thành như một thiên kim tiểu thư. Cô đẹp lắm, càng lớn càng đẹp, cha mẹ cô đó mới tìm cho cô này một chàng trai khôi ngô, tuấn tú, đẹp trai nhất vùng, hai người này cưới nhau, sống một thời gian vô cùng hạnh phúc, như là một cặp đôi hoàn hảo, ai cũng ca tụng, ai cũng mong ước như họ. Khoảng một thời gian sau, người cha của cô ấy mất, hai vợ chồng sống với bà mẹ. Bà mẹ lại sinh tà tâm với người con rể, cho nên cặp kè với người con rể ấy, một thời gian thì bị phát hiện. Cô gái đau khổ vô cùng, mặc dù thời gian đó cô cũng mới mang thai, và sau đó cô sinh được một đứa con gái. Sau khi sinh xong, cô ấy để đứa con lại cho mẹ, cho chồng mình nuôi, cô ấy bỏ ra đi tới một thành thị khác để sinh sống. Khi tới một nơi khác, xứ lạ quê người, cô cũng sợ lắm, nhưng lại được nhiều chàng trai dòm ngó, tại vì cô này đẹp, nên đi đâu cũng có người thích, cũng có người mến, và cô đã thành thân với một thương gia giàu có. Hai vợ chồng ở với nhau rất hạnh phúc, ông chồng là thương gia nên thường đi đây đi đó để trao đổi hàng hoá. Khi tới một làng kia, lại cặp với một cô bồ nhí, ông cưới cô gái đó rồi đem về, xây cho cô ta một ngôi nhà khang trang ở với nhau một cách lén lút, không cho bà vợ cả biết. Sau một thời gian thì cô vợ cả này phát hiện chồng mình ngoại tình, cô buồn lắm nhưng mà cô nghĩ rằng, thôi thì cứ cho cô gái kia về ở cùng để có chị có em, có cả có thứ, và chấp nhận đưa cô vợ trẻ này về. Có một lần cô vợ  trẻ, vợ thứ đang gội đầu thì vô tình cô vợ cả thấy được một nốt son ở trên cổ, rồi cô vợ cả mới hỏi về quê quán cảnh thế nào, cô vợ thứ mới kể ra toàn bộ, thì ra cái cô vợ thứ hai này là con gái của mình. Cô chết lặng. Bao nhiêu nỗi oan nghiệt nó ập tới với cô này, đau khổ tột độ, muốn tự tử mà không chết, cô ta bây giờ bất cần cuộc sống này nữa, đem nhăn sắc của mình huỷ hoại cuộc đời. Cô vào làm một kỹ nữ và mua vui, cô phá hoại rất nhiều gia đình khác, với tài sắc vẹn toàn, hễ nghe tiếng cô là các chàng đều đến mua vui.

Có một lần người ta mua chuộc để cô phá các vị tu sĩ, đệ tử của Đức Phật, cô chấp nhận bởi vì cô nghĩ cô không còn gì để mất. Và khi đó, cô gặp Tôn giả Mục Kiền Liên, là vị Thần thông Đệ nhất mà chúng tôi vừa kể. Cô muốn gạ gẫm để phá hoại đạo hạnh của Tôn giả mà không ngờ rằng Tôn giả Mục Kiền Liên là thần thông đệ nhất, Ngài đoán biết được cái tâm, cái ý của cô này. Và rồi Tôn giả Mục Kiền Liên đã giáo hoá cho cô này, rồi cô này từ từ tỉnh ngộ, dẫn tới Tịnh Xá đảnh lễ Đức Phật, xin xuất gia, để sám hối, tu tập,. Và cô tu rất giỏi, tại cuộc đời cô quá ê chề, qua đau khổ, quá oan trái, nó có quá nhiều thăng trầm trong cuộc sống, cô bất cần đời, chuyên tâm tu tập, và một thời gian ngắn sau cô chứng quả A La Hán. Và cô đó tên là Liên Hoa Sắc.

Để chúng ta biết rằng, cái sắc dục có sức mạnh như thế nào: "Ái bất trọng bất sinh ta bà, niệm bất nhất bất sinh Tịnh độ". Ái mà không nặng không rơi vào đây, niệm không chuyên thì không về cõi Phật. Cho nên vì ái nghiệp mà chúng ta rơi vào đây, vì ái nghiệp, vì sắc dục mà trở lại con đường tu tập và tạo phước, tạo việc thiện cũng như hạnh phúc bình an của chúng ta. Thế cho nên, người xưa nói là: " vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách, sắc bất ba đào dị nịch nhân"( Mưa không phải là chìa khoá nhưng giữ người ta ở lại, sắc đẹp không phải sóng to, gió lớn mà có thể nhấn chìm người ta xuống dưới biển) uy lực như vậy thưa quý vị. Cho nên hễ mà ai bị sắc dục chi phối, lôi kéo thì khổ vô cùng. Người đời khổ rồi mà người tu cũng khổ, có phải không quý vị, khổ lắm. Nó có mặt ở đâu thì ở đó nó sẽ làm cho cuộc sống của mình thấp xuống thưa quý vị. Nếu mình biết đem cái sắc tướng mà tu tập, nếu mình biết chuyển hoá sắc dục thì đó là phước báu, nhân duyên thiện lành của mình. Còn nếu mình có sắc đẹp mà mình sử dụng sắc đẹp đó với tà tâm, tà vậy quấy phá, thì đó chính là ma chướng, đó chính là nghiệp chướng, đó chính là trở ngại cho con đường tu tập của mình.

Khi Đức Phật thành đạo dưới cội bồ đề, ma sắc dục nó cũng tới quấy phá thưa quý vị, huống chi là mình, mình mới tu, đường tu còn non kém, rất dễ bị ma chướng, rất dễ bị lung lay, cho nên những hàng Phật tử cư sĩ tại gia, thiện nam tín nữ, cận sự nam, cận sự nữ, phải hộ trì cho chư Tăng, chư Ni, để chư Tăng, chư Ni tu tập tốt hơn. Nếu không thì các vị trở thành là ma nữ, ma chướng trở ngại cho con đường tu tập của quý thầy, quý sư cô.

-Cái chướng ngại thứ ba là chướng ngại khi chúng ta ham muốn danh vọng địa vị.

Có những người có được địa vị, có được danh lợi bằng thực lực của mình, bằng nội lực của mình thì không có gì là xấu, chứng tỏ được mình có tài năng, có bản lĩnh. Nhưng mà cũng có có những người đạt được danh vọng, địa vị mà giết cha, giết mẹ, giết anh, giết em, tàn ác, đánh mất nhân cách, luân thường đạo lý, vong ơn bội nghĩa, tạo ra khổ đau; nhấn chìm, chà đạp người khác để có danh vọng, địa vị, thì các danh vọng địa vị đó, là tội lỗi là khổ đau: " Gót danh lợi bùn pha sắc xám/ Mặt phong trần nắng rám mùi dâu". Ai mà trải qua con đường danh lợi, thì mới thấy con đường đó cũng lắm chông gai, cũng lắm sương gió, phải chịu thương, chịu khó, phải băng rừng lội suối để có được thành công như thế. Không phải dễ gì mà có được cái đỉnh cao của danh vọng, cần sự nỗ lực của chúng ta. Nhưng nếu như người biết tu tập thì người đó sẽ biết và dừng lại đúng lúc, đem cái danh và địa vị ấy mà làm nhiều việc có ý nghĩa. Như thời xưa các vị vua chúa có tu tập, thì các vị sẽ sử dụng cái vị thế để tạo phước cho dân, còn người không có tu tập sẽ càng tạo nghiệp cho cuộc đời. Người tu tập, người ấy biết tạo hạnh phúc cho mình, như một vị thiền sư đã từng nói:

Ai chen danh lợi cứ đua chen                                                                             Mặc kệ cao sang, mặc kệ hèn                                                                              Lên núi dựng lều tham công án,                                                                                Xuống ghềnh múc nước hỏi tâm nguyên”.

Trả lại bình yên cho cuộc đời, không làm cho cuộc đời tạo thêm buồn, thêm bận, không làm cho chúng sinh thêm đau khổ, đó là người có tu, đó là người biết tạo phước, đó là người biết chặn lại con đường của ma chướng, đó là người biết chặn lại những chướng duyên trong lộ trình tu học của mình, trong con đường mà mình tìm kiếm hạnh phúc, bình an giữa cuộc đời.

 Có một vị trưởng giả giàu có, với lầu gác nhà cao, vợ đẹp con xinh, nhiều người hầu hạ, nhưng ông luôn bất an và lo lắng. Ông đến hỏi Đức Phật: Thưa đức Cồ đàm,mặc dù tôi có nhiều của cải, mọi thứ đều đầy đủ, nhưng tôi cũng có nhiều bất an và lo lắng , tôi muốn có HẠNH PHÚC, xin Ngài chỉ dạy”. Đức Phật mỉm cười và bảo: Ông muốn có HẠNH PHÚC, thì ông hãy bỏ đi hai cái: Thứ nhất là cái “Tôi”; thứ hai là cái “muốn” thì HẠNH PHÚC sẽ có mặt.

Thưa quý vị, vì cái tôi, cái bản ngã mà có cao, có thấp, có phân biệt nên cái bản ngã đó làm chướng ngại cho mình, khi nào cũng cho mình là số một thì sẽ khổ đau. Vợ cho vợ là nhất thì gia đình đó làm sao mà hạnh phúc cho được. Chồng cho chồng là nhất thì không bao giờ có hạnh phúc. Con cho con là nhất làm sao mà nghe lời cha mẹ. Khi nào, ở đâu mà có cái ngã, thì ở đó có sự ngăn cách, vì vậy mà bỏ cái ngã đi, bỏ cái tôi đi thì đó là hạnh phúc. Mình là con Phật, mình phải học thoe lời Đức Phật dạy thì mình sẽ có hạnh phúc.

Cái ham muốn của con người là vô tận; muốn giàu, muốn đẹp, muốn sang, muốn quý. Muốn giàu phải giàu nữa, muốn sang phải sang nữa, muốn địa vị cao phải cao nữa, không bao giờ muốn dừng lại, không bao giờ biết là đủ. Giám đốc là phải lên chức Chủ tịch Hội đồng quản trị, trưởng phòng phải lên giám đốc, thứ trưởng là phải lên bộ trưởng, có phải không thưa quý vị, đó là ham muốn trong cuộc đời này. Xây một cái nhà chưa đủ, xây thêm một cái nữa. Có xe rồi, mua thêm một chiếc nữa... Đó là ham muốn rất đời thường trong cuộc đời mà ai cũng có nhu cầu ấy. …Thành ra Đức Phật dạy người tu là phải cạo đầu là vì thế, cho nó phủi đi những cái bụi bặm, những cái đời thường, mình tu làm sao cho nó đẹp là được. “Tâm đã sạch mặc áo gì cũng đẹp, lòng vô ưu còn hỏi chuyện chi xuân”. Người mà tâm không đẹp, xấu tính thì họ có mặc áo lụa, áo là họ vẫn cứ xấu, còn người mà đẹp trong tâm, thì mặc bộ đồ lam nó cũng toát ra những điều dễ thương, ngoan hiền. Cho nên buông bỏ cái tôi, cái ngã của mình, buông bỏ cái ham muốn của mình, cái ham muốn phàm phu, nâng lên một chút nữa thì sẽ có hạnh phúc.

Kính thưa toàn thể đại chúng, danh lợi, địa vị có chướng ngại như thế, cho nên Đức Phật mới giảng dạy để mình phải biết dừng lại, biết hướng tới những con đường cao hơn. Ngài đi tu, bỏ cả quyền cao chức trọng, bỏ cả ngôi vị hoàng tử, bỏ cả ngôi vua, để vào đường tu, không danh lợi, không địa vị. Cho nên Ngài trở thành Người mà trời người tôn kính. Chúng ta muốn được tôn kính thì mình cũng phải tu, mà tu nhiều lắm, tu trong nhiều đời nhiều kiếp nữa.

-Chướng ngại thứ tư trong ngũ dục là đam mê ăn uống, gọi thực dục. Vì đam mê ăn uống mà chúng sinh tạo nghiệp. Ba tấc lưỡi nhưng ăn đến không biết bao nhiêu là vị, bao nhiêu là mùi của chúng sinh trong, phải không thưa quý vị. Cái dạ dày của mình một chút, cái lưỡi ngắn một chút thôi nhưng mà nó lợi hại lắm. Quý vị biết bao nhiêu là món ăn, có bao nhiêu là thức uống.

Ăn sang, gọi là ăn hảo hạng, những đồ hảo hạng, những đồ gọi là siêu phẩm, những đồ quý đồ hiếm giành cho những người có tiền, giàu có. Còn người có kinh tế bình thường thì sử dụng đồ ăn đồ uống bình thường. Còn những người nghèo một chút thì lại sử dụng thực phẩm rất đơn giản.

Hạng thượng lưu thì sử dụng thượng phẩm, thức ăn ngon, cực ngon; có thức ăn vừa phải giành cho người Trung lưu; thức ăn bình dân thì dành cho hàng hạ lưu, tức những người nghèo, những người không có tiền.

Ở đời thì có thức ăn dành cho thượng trung hạ như vậy, còn các thầy tu ăn uống đơn giản với rau củ quả như thế không biết thuộc vào tầng lớp nào ta? Nhưng ăn đơn giản sẽ bớt tạo ác nghiệp, còn vì cái ăn, cái uống mà chúng sinh tạo vô biên nghiệp chướng, là điều nên tránh.

Thế cho nên thưa quý vị vì ăn và uống mà chúng sinh tạo nghiệp, gây trở ngại cho hạnh phúc, cho sự thảnh thơi, cho con đường đưa đến giải thoát, phải không thưa quý vị?

-Cái thứ năm trong ngũ dục là ngủ nghỉ. Vì sao ngủ nghỉ cũng trở thành cái trở ngại cho mình? Tại vì chúng sinh là mê ngủ, mà ngủ là mê, mà mê thì không thể giác ngộ được. Như người có tiền thì xây nhà cao, nhà rộng, đem tiền xây khách sạn nhà nghỉ,…. Với đầy đủ tiện nghi để phục vụ nhu cầu nghỉ ngơi cho mọi người. Có khi một đêm tốn cả mấy ngàn đô, mà không biết ngủ có ngon hay không nhưng tốn tiền nhiều là có.

Hồi xưa, khi còn Thái tử, Ngài cũng được ăn ngon mặc đẹp, có nhiều tòa lâu đài tiêu khiển và phù hợp với các mùa; mùa hè có cung điện mùa hè, mùa đông có cung điện mùa đông, mùa thu có cung điện mùa thu, mùa xuân có cung điện mùa xuân. Khi mà Ngài còn làm thái tử, Ngài có những cung điện như thế, sướng lắm, mà Ngài bỏ hết, Ngài vô rừng, dầm mưa dãi nắng, phơi nắng phơi sương. Cái nắng của Ấn độ là cực kỳ khó chịu thưa quý vị, ai đi Ấn Độ thì sẽ biết nó cực kỳ khó chịu, thế mà đức Phật trải qua sáu năm, rồi qua thời gian đi hoằng pháp cũng chịu nhiều cái khổ lụy như vậy. Nhưng Ngài không bao giờ than vãn, vì đó là con đường mà đức Phật đã chọn để hóa độ chúng sinh. Tới đâu ngủ đó, thấy gốc cây nào to to thì dừng lại nằm xuống đó, sau này đệ tử của Phật sướng hơn, có chỗ ăn chỗ nghỉ đàng hoàng hơn, có tịnh xá Kỳ Viên, tịnh xá Trúc Lâm là hai nơi đàng hoàng để tu tập. Càng thỏa mãn nhu cầu thỏa mãn đòi hỏi của bản thân nhiều sẽ trở ngại cho sự tu tập và giải thoát.

Chúng sinh trong cuộc đời này, ai cũng khó mà vượt qua được năm điều đó. Thế thì ngài A Nan đã vì cuộc đời này mà thưa với Đức Phật: “Thưa Thế Tôn cho con vào đây để con độ chúng sinh; cho con vào đây, vào cuộc đời năm chướng này để con độ chúng sinh nào đã vì tiền tài mà đánh mất nhân cách đạo đức của mình; vì sắc dục mà bị đắm chìm, bị trôi lăn, con giúp cho họ; cho con vào đây, vào cuộc đời năm chướng này để con độ chúng sinh nào đã vì chạy theo danh vọng địa vị mà làm khổ cuộc đời, cho con giúp họ; cho con vào đây để con giúp cho chúng sinh nào ham ăn ham ngủ, con giúp cho họ tỉnh táo mà tu tập.  Đó chính là đại nguyện của tôn giả A Nan.

Muốn được thoát khỏi chướng duyên như vậy thì tất cả chúng ta, đạo tràng chúng ta, chư vị hương linh hãy nhận ra điều ấy, nếu mình đã từng sai phạm, nếu mình đã từng tạo nghiệp, nếu mình đã từng gây tội gây lỗi lầm thì hôm nay chính cơ hội chư vị sám hối và làm lại cuộc đời của mình.

Người còn sống thì sống dễ thương hơn, thay đổi thân của mình, thay đổi tâm của mình để mình có hạnh phúc có bình an. Người quá vãng thì hãy thay đổi nghiệp thức của mình để được siêu sanh.

Người còn sống thì hãy nhìn cuộc đời bằng đôi mắt từ ái dễ thương, hãy nghe cuộc đời từ bi như Ngài Quán Thế Âm, hãy nói những điều tốt đẹp, có ý nghĩa đem lại hòa bình cho cuộc đời. Tu là sửa, sửa cho đẹp lên, thay vì mình nhìn cuộc đời bằng ánh mắt đố kỵ, giận hờn thì mình nhìn lại bằng đôi mắt dễ thương hơn. Hãy thay đổi cách nhìn, thay đổi cách nghe của mình, thay đổi cách ngửi của mình, thay đổi cách nói của mình…. thì nghiệp được chuyển, chuyển từ xấu thành tốt và đó chính là tu tập.

Nếu mình không làm như thế thì chắc chắn rằng mình không có phước.

Quývị biết cái phước đó nó đến từ đâu không? Cái phước đó nó đến từ mắt của mình chứ không phải từ trên trời, từ cầu khấn mà đến; nó đến từ cách nhìn. Nếu quý vị nhìn không bằng sự kết nối, nghe với tâm phán xét, rồi thêm một thêm hai, thêm ba, thêm mười thì cái nghe đó không phước đức. Cách nói của mình cũng thế, thêm mắm thêm muối rồi tạo khoảng cách, tạo chia rẽ, tạo mâu thuẫn thì cái nghe đó là tạo tội.

Tất cả các điều đó là điều chúng ta đã, đang và tiếp tục sẽ gây nghiệp thì phải biết sám hối, chư vị hương linh mà thấy được điều đó thì cũng dừng lại mà sám hối. Chư vị hương linh cũng trôi qua nhiều đời nhiều kiếp như vậy, cũng từng lầm lỗi như vậy, mình đã từng vì cái thấy mà tạo tội, từng vì cái nghe mà tạo tội, mình đã từ vì cái ngửi mà tạo tội, từng vì sự tiếp xúc mà tạo tội, đã từng vì tâm bất tịnh mà tạo tội, tâm bất thiện mà tạo tội. Như vua Trần Thái Tông đã nói rằng: “Một chiếc áo dính bụi, đem chiếc áo đó giặt đi thì bụi nơi chiếc áo sẽ sạch”. Chúng ta đã, đang khoác lên mình chiếc áo của nghiệp lực, các hương linh đã từng khoác lên tâm thức của mình chiếc áo như vậy, thì mình phải sám hối thì mới được giải thoát, an vui. 

Thế cho nên may mắn lớn nhất mà quý vị có mặt ở đây, cái phước đức mà quý vị có mặt ở đây là quý vị nương vào đạo tràng này, chư vị hương linh của gia đình quý vị nương vào đạo tràng này để cầu nguyện âm siêu dương thái, người âm, hương linh được siêu thoát, người còn sống được bình an, được may mắn, được hạnh phúc. Trong đạo tràng hôm nay có Phật, có Pháp, có Tăng, chúng ta ngồi trong năng lượng vô cùng tốt đẹp này, thì chính bản thân của mình trong giờ phút này đang có phước, sẽ thêm phước. Chư vị hương linh nương vào đạo tràng này nhất niệm khép lại lối mòn sinh tử để bước tới con đường cao đẹp.Muốn được điều đó, bằng sự chí thành chí kính, bằng hiếu tâm hiếu đạo quý vị cảm ứng tới Phật, Bồ Tát, chư vị Thánh Hiền, đưa chư vị hương linh đến bến bờ giải thoát an vui và được âm siêu dương thái.

Chúng tôi một lần nữa đảnh lễ Đại Đức Thích Minh Thế đã vì sự tồn tại lâu dài của Chánh Pháp mà thiết lập đạo tràng hôm nay, khánh tạ Mộc Bản Thần Chú Lăng nghiêm này. Với phước đức này xin cầu nguyện cho thầy luôn tinh tấn, phật sự chóng thành. Tán dương tất cả quý gia đình, quý phật tử, quý thiện nam tín nữ một lòng hộ đạo vô cùng quý kính đối với Phật, Pháp, Tăng, trợ duyên để cho pháp sự, pháp hội này được mỹ mãn thành công. Công đức này, phước đức này, xin hồi hướng cho tất cả quý vị, cho tất cả chư vị hương linh, cho chư vị âm linh cô hồn, cho tất cả pháp giới chúng sinh đều được lợi lạc, viên thành phật quả. Nguyện cầu âm siêu dương thái, pháp giới chúng sinh đồng triêm lợi lạc.

Nam Mô Công Đức Lâm Bồ Tát Ma Ha Tát.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật tác đại chứng minh.

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/08/2022(Xem: 2120)
Quán niệm về nhân duyên hình thành đời sống chúng ta, hình thành con người xã hội, hình thành đất nước, và hình thành thế gian. Tất cả cuộc hình thành này đều từ nhân duyên. - Từ nhân duyên luyến ái, hòa hợp, cha mẹ đã sinh ra, nuôi nấng, dạy dỗ chúng ta. Dù việc sinh thành chúng ta mang mục đích và ý nghĩa nào, và dù cha mẹ có thương yêu hay không thương yêu chúng ta, ơn sinh thành dưỡng dục ảnh hưởng cả cuộc đời chúng ta vẫn là điều cần ghi nhớ.
11/08/2022(Xem: 3559)
CHÁNH PHÁP Số 129, tháng 8 2022 Hình bìa của Đặng Thị Quế Phượng NỘI DUNG SỐ NÀY: THƯ TÒA SOẠN, trang 2 TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 THÔNG BẠCH VU LAN PL. 2566 (HĐGP – GHPGVNTNHK), trang 6
10/08/2022(Xem: 2543)
Tâm mình rộng lớn khoảng bao nhiêu? Này bạn!! Hễ lòng mình chứa nổi gia đình thì cái tâm bằng gia đình, mình mến tất cả người trong thôn thì tâm mình lớn bằng cái thôn, quý hết mọi người trong làng thì tâm mình lớn bằng cái làng.
10/08/2022(Xem: 2290)
Có bạn nêu thắc mắc: người viết đã nhiều lần nhắc tới câu nói của Thiền Tông rằng “Ba cõi là tâm” – vậy thì, có liên hệ gì tới Duy Thức Học? Và tâm có phải là thức? Và tại sao Thiền sư Việt Nam thường nói “vô tâm thị đạo”? Trước tiên, xin chân thành trả lời ngắn gọn, rằng, “Không dám nói là biết chính xác. Cũng không dám nói ý riêng. Nơi đây sẽ đọc lại kinh để trả lời.” Bài này sẽ tìm cách trả lời khác đi, theo một cách thực dụng, để khảo sát về tâm, về ý, về thức, và về vài cách có thể tương ưng trên đường tu giải thoát.
10/08/2022(Xem: 3815)
Nam Mô Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát Kính gửi chư Tôn Đức, chư Pháp hữu & quý vị hảo tâm Từ thiện. Được sự thương tưởng và hỗ trợ của chư Tôn đức và quí vị thiện hữu hảo tâm, chúng con, chúng tôi vừa thực hiện xong 9 giếng cần giục (Well hand-pump) cho những ngôi làng nghèo lân cận vùng núi Khổ Hạnh Lâm & vùng Kê Túc Sơn tiểu bang Bihar India đang trong tình trang khan hiếm nguồn nước sạch giữa mà Hạ oi nồng..
04/08/2022(Xem: 2141)
Thoạt đọc qua, có vẻ như có gì hơi sai sai khi đặt nhan đề bài này là “Vô thường cũng là Niết bàn tịch diệt”… Bởi vì, vô thường được hiểu là sinh diệt tương tục, sinh diệt bất tận. Trong khi đó, tịch diệt là Niết bàn với thể tánh không tịch, vắng lặng – được hiểu như dường nghịch nhau, vì trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức Phật đã dạy: “Sinh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi lạc” (sinh diệt diệt rồi, [Niết bàn] tịch diệt là vui). Bài viết này sẽ dò tìm một vài cách thực dụng để nhìn thẳng vào vô thường và nhận ra Niết Bàn. Với các sai sót có thể có, xin được trọn lòng sám hối.
14/07/2022(Xem: 2397)
Trong cuộc tranh quyền về một thung lũng màu mỡ hai lãnh chúa lân bang với nhau đồng ý không gây chiến tranh mà thay vào đó chỉ giải quyết vấn đề này bằng một cuộc đấu cá nhân. Mỗi vị chúa tể sẽ đưa kiếm sĩ giỏi nhất của mình ra để đấu với tay kiếm của vị chúa tể kia. Quyền làm chủ mảnh đất sẽ trao cho bên chiến thắng.
11/07/2022(Xem: 2632)
Thiền sư dẫn lớp học trong khóa an cư kiết hạ của thầy vào miền núi. Nhiều người trẻ từ thành thị hoặc các nông trại tới nên không có kinh nghiệm gì về chốn hoang dã. “Thưa trong những ngọn núi này có thú vật không?” một người hỏi. “Thưa phòng tắm ở chỗ nào?” một người khác hỏi. “Chúng ta tới đây để tiếp xúc cùng thiên nhiên và với chính chúng ta,” thầy hướng dẫn lên tiếng. Thầy giúp những chàng trẻ tuổi dựng lều trại và nhóm lên một đám lửa. Suốt đêm gió thổi mạnh dữ dội và một cơn mưa lạnh lẽo trút xuống đám người cắm trại không được vui thú chi.
20/06/2022(Xem: 7303)
Authors (Tác giả): Jing Yin, Ken Hudson & W.Y. Ho Illustrations (Minh họa): Yanfeng Liu Dharma for Youth Phật pháp cho Tuổi trẻ Biên soạn và chuyển ngữ:
19/06/2022(Xem: 3282)
Nam Mô Hiểu Và Thương Bồ Tát - Kính thưa chư Tôn đức, chư Thiện hữu & quí vị hảo tâm. Trong tâm niệm:''Sáng cho người thêm niềm vui, chiều giúp người vơi bớt khổ'', vào hôm qua (June 15 2022) hội từ thiện Trái tim Bồ Đề Đạo Tràng chúng con, chúng tôi đã tiếp tục thiện sự chia sẻ thực phẩm, y phục và tịnh tài cho những mảnh đời bất hạnh, những người dân nghèo khó nơi xứ Phật tại tiểu bang Bihar India. Xin mời quí vị hảo tâm xem qua một vài hình ảnh tường trình..
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567