Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Giá Trị Của Khổ Đau

06/08/201819:48(Xem: 5932)
Giá Trị Của Khổ Đau
GIÁ TRỊ CỦA KHỔ ĐAU
 kho-dau
Quang Minh

Khổ đau là điều ai cũng muốn tránh trong cuộc sống, không ai mà muốn bất hạnh xảy ra đối với mình. Nhưng cuộc đời là những bước thăng trầm của tâm hồn, là con đường chông chênh nhiều lúc nhiều hầm hố. Chỉ những người khi ngã mà không nản chí quyết tâm bước dậy đi tiếp mới là đáng trân quý biết bao. Và mỗi lần vấp ngã trong cái của khổ đau lại cho ta nhiều bài học về kinh nghiệm sâu sắc mà không ở đâu có được.

Có bao giờ bạn tuyệt vọng rơi vào trạng thái ưu tư khổ não về một vấn đề nào đó trong cuộc sống bất như ý đến với bạn? Câu trả lời là trong cuộc đời không thể tránh khỏi những phút giây phiền não do những bất như ý đem lại. Vì vô thường nên không gì có thể lường trước đước, vì vô thường nên không thể biết được, ngờ được, tránh được. Khi những bất như ý đến với ta thì theo tâm lý ta đón nhận nó có thể trong ba cách sau:
- Thứ nhất, khổ đau phiền muộn vì nó và buông xuôi mọi thứ, không chịu tìm cách khắc phục cố gắng vượt qua, không chịu bước dậy đi tiếp, và đó là con đường đưa tới sự bất hạnh và khổ đau, sự chán chường và phiền não, sự tối tăm trong tâm hồn cô quạnh, sự bất hạnh của cuộc đời đeo mang.
- Thứ hai, tuy khổ đau ưu sầu, nhưng vẫn tìm cách khắc phục, tìm cách giải quyết, coi đó là bài học là kinh nghiệm trong cuộc đời. Đó là gía trị tâm hồn của con người đầy nghị lực và nhiệt huyết, đầy dũng cảm và lý trí. Tuy chưa làm chủ được cảm xúc khổ não, nhưng không để cảm xúc khổ não kéo đi trong số mệnh vô thường của cuộc sống.
- Thứ ba, chấp nhận nó như một phần tất yếu của cuộc sống, buông xả đi mọi ưu tư phiền muộn, dũng cảm đối mặt với nỗi khổ đau, nhìn nhận nó trong nhiều mặt của vấn đề. Và nhận ra cái gì cũng có hai mặt tốt và xấu. tích cực và tiêu cực cả. 
Giá trị của khổ đau chính là nằm ở chỗ chỉ có khổ đau mới biết được hạnh phúc là gì. Nhiều lúc mình đang sống trong cảnh sung sướng nhưng quá quen quá nhàn với nó nên mình không trân trong nó, không quý nó. Chỉ đến khi mất đi mình mới thấy nó thật có giá trị, thật là hạnh phúc, thật là vui vẻ. Ví như không khí, ta hít thở hằng ngày nên coi đó là bình thường, chỉ khi nào tới nơi không khí ô nhiễm hay nơi không có không khí thì ta mới biết trân quý không khí mà thôi. Hay như bạn bè thân thiết, quen biết quan hệ tốt với nhau thời gian nhưng nhiều lúc chỉ một vấn đề nhỏ nào đó không vừa lòng liền thôi không còn tình bạn gì nữa. Đến khi đó có lúc ta chợt nhận ra, lỗi có khi do ta hay cũng có khi do bạn nhưng lỗi đó có đáng để ta mất đi một người bạn hay không? Để từ đó ta mới biết được sự nặng nhẹ mà cân nhắc làm cho đúng. Và trân quý phút giây bên nhau, vì có khi như sương sớm buổi ban mai, vô thường vẫy gọi người đi đâu rồi, mất mát chết chóc bất ngờ, có khi đâu tránh được những thời phân ly. Ai đâu thể biết chữ Ngờ, nên đâu thể tránh đâu thể lường được đâu... 
Giá trị của khổ đau là nằm ở chỗ đó là nhờ khổ đau vấp ngã mới thu nhận những kinh nghiệm sâu sắc của cuộc đời, như đứa bé muốn đi thì phải qua bao lần vấp ngã mới đi lại được, chính giá trị của vấp ngã cho đứa bé biết nên làm gì, biết làm gì để giữ cân bằng lúc đi lại. Và làm bất cứ việc gì cũng vậy, chỉ có vấp ngã mới cho ta bài học kinh nghiệm để tiếp tục con đường và hành trình ta đang đi thêm trọn vẹn. 
Giá trị của khổ đau làm cho con tâm hồn ta ngày thêm vững chãi, ổn định tâm ta giữa sóng gió cuộc đời, nên người càng trưởng thành thì càng điềm tĩnh, và trưởng thành có được thông qua kinh nghiệm và kinh nghiệm là những gì đúc kết của bao lần vấp ngã rút ra. 
Nói đến khổ đau, chúng ta thường có ác cảm với nó, nhưng giá trị đức độ của người biết sống, biết tu nằm ở chỗ là trong khổ đau mà không bị khổ đau ràng buộc, níu kéo, chìm đắm, trôi lăn trong vô định tâm thức phiền não. Biết lấy khổ đau làm phương tiện tu hành, hành trì để biết tâm mình tới đâu, lòng mình thế nào, chí mình ra sao. Chỉ có khổ đau và vượt qua khổ đau mới nâng tâm hồn con người trí tuệ, đạo đức lên nấc thang cao thượng mà thôi. Vì trong cái ổn định nào biết ta tu thế nào, tu ra sao, sống tốt hay không. Ví như tâm ta muốn biết sân thế nào, có nhiều có lớn hay không thì ta phải thể nghiệm nó thông qua khổ đau của cuộc đời này mà khi khổ đau không khởi tâm sân hận, khi bị chửi mắng mà tâm không theo đó mà động loạn sân si thì đó là ta biết ta đang tu có tiến bộ, là tốt...Nếu tâm chưa an chưa tĩnh mà còn sân si thì ta biết ta tu tập chưa tốt chưa tiến bộ. Vậy hãy lấy khổ làm thầy mà thể nghiệm tu hành trong tâm. Chỉ có tâm thanh tịnh giữa biến động vô thường của khổ đau phiền não thì đó là sự giải thoát thật sự của tâm hồn thanh cao. Và đánh giá một con người thì hãy nhìn cách mà người đó khi gặp chuyện, gặp phiền não mà hành xử ra sao thì khi đó mới biết được bản chất người đó như thế nào, cũng như nhìn nhận bản thân ta, tu tập thế nào cũng chỉ có khổ đau là thước đo tốt nhất. Hãy nhìn khổ đau như phần tất yếu cuộc sống, biết nó và hãy vượt qua nó và làm chủ được nó, khi đó mới là người biết sống, người tu chân chính. 

 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/10/2014(Xem: 21351)
Đây là một trong những câu hỏi mà phóng viên tờ Mandala đã phỏng vấn bác sĩ Alan Molloy, một thành viên lâu năm của Viện Phật học Tara ở tiểu bang Melbourne, Úc, một người đã chứng kiến sự phát triển của đạo Phật tại quốc gia này từ cuối thập niên bảy mươi đến nay.
20/10/2014(Xem: 7339)
Là tín đồ Phật giáo từ năm mười bảy tuổi, đạo hữu luật sư Christmas Humphreys (1901-1983) không thuộc bất cứ một giáo phái nào của Phật giáo. Ông tin vào Phật giáo thế giới, và ông nghĩ rằng: “chỉ trong sự phối hợp của tất cả các tông phái người ta mới có thể thấy trọn vẹn sự vĩ đại của tư tưởng Phật giáo” (only in a combination of all schools can the full grandeur of Buddhist thought be found). Để làm cho quan điểm của mình được Phật tử trên thế giới chấp nhận, ông đã trình bày Mười hai nguyên tắc của Phật giáo (Twelve Principles of Buddhism) nổi tiếng của mình vào năm 1945, được dịch ra 14 thứ tiếng và được nhiều tông phái Phật giáo trên thế giới chấp nhận. Mười hai nguyên tắc ấy có điều giống với Mười Bốn Nguyên Tắc của Đại Tá Olcott giới thiệu trong tác phẩm Phật pháp vấn đáp (Buddhist Catechism) của ông, được xuất bản vào cuối thế kỷ thứ 19.
17/10/2014(Xem: 6928)
Bài viết “Phật trên hè phố Oakland” của nhà báo Trần Khải, tiếp tục được tải truyền rộng rãi trên các website. Bài viết ghi lại đại cương sự kiện phóng viên Chip Johnson kể lại trên báo SFGate.com về một pho tượng Phật đã đem lại sự bình an, sạch sẽ cho một khu phố nhiều tội ác và rác rưởi trước đây. Chi tiết đặc biệt đã thu hút người đọc, là pho tượng Phật Thích Ca bằng đá, chỉ cao khoảng 2 feet, được đặt ở góc đường 11 và đường 19, trong khu Eastlake, thành phố Oakland , là do một người vô thần, tình cờ nhìn thấy tại một tiệm bán vật liệu xây cất.
16/10/2014(Xem: 13806)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đại mà con người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh. Tuy nhiên theo lời Phật dạy, Phật từ tâm, tâm sinh Phật, để đưa đến giải thoát giác ngộ. Do đó nếu đã là Phật tử rồi thì nhất định phải tin lời Phật dạy, hơn nữa Kinh Hoa Nghiêm còn nói: “niềm tin là mẹ của công đức”.
14/10/2014(Xem: 8860)
Bạn chưa từng ghé thăm mà không gọi trước. Vậy mà lần này, mở cửa, chưa nhìn thấy người đã thấy hoa và trái. Mấy bó cúc đại đóa vàng tươi che kín mặt, chưa đủ, tay kia còn chĩu nặng một giỏ, vừa hồng dòn, vừa soài xanh, mận chín. Tôi toan đỡ một thứ, bạn đã bước nhanh qua cửa, đi thẳng vào bếp, đặt quà xuống, và líu lo: - Hên ghê, mình vừa đến tiệm là xe chở hoa và trái cây phân phối các chợ cũng vừa tới. Xem này, thiệt là tươi. Mình mua ngay. Khách hàng đầu tiên đấy!
14/10/2014(Xem: 8161)
Con đường ấy, khởi bước, ngỡ không mấy khó và chắc cũng chẳng có chi dài, vì nương theo sự chỉ bảo của các vị Đạo Sư, các bậc thiện tri thức giảng giải lời Phật dạy, thì sự giải thoát, giác ngộ có bao xa! Tùy căn cơ người nghe, lời giảng dạy chỉ gom về một mối, là muôn kinh, vạn kệ, hằng hà pháp môn cũng chỉ để giúp ta nhận ra, rằng mỗi chúng sanh đều có Phật Tánh sáng chói như nhau, nhưng nếu không thấy, chỉ bởi vô minh che lấp mà thôi. Nhận ra, và xóa sạch được bụi vô minh thì chúng sanh “sẽ thành Phật” đó, lập tức là “Phật đã thành”.
14/10/2014(Xem: 8460)
Mỗi tuần, tôi có một ngày để làm hai việc tuyệt vời. Đó là, thứ nhất: làm thinh, thứ hai: không làm gì cả! Hôm nay đang là phút giây tuyệt vời đó. Sau những ngày lạnh bất thường, nắng sáng nay rất đẹp, vàng óng và ấm áp. Cây cỏ hoa lá rộ lên niềm vui. Mọi cánh cửa mở rộng để nắng ghé vào, mang hương thơm của đất trời chuyển hóa. Không mùi hương nhân tạo nào so sánh được với hương gió núi mây ngàn. Ít nhất, chủ quan tôi như thế.
14/10/2014(Xem: 7286)
Từ Tào-Khê tịnh thất lên ngôi chùa hoang vắng nằm sâu trong rừng thông miền đông bắc Hoa Kỳ, hành trang tôi đã nhẹ. Rồi từ ngôi chùa hoang vắng đó về lại tịnh thất, hành trang lại càng nhẹ tênh! Cái giầu có nhất trong gia tài tôi, chỉ là kinh và sách, nhưng sau chuyến “lên rừng độc cư”, nay từ ba kệ lớn, chỉ còn một kệ nhỏ, khi thực hiện lời phát nguyện “Tặng hết những gì có, tới những ai ngỏ lời xin” (trừ những cuốn có chữ ký và thủ bút của Thầy Tuệ Sỹ)
13/10/2014(Xem: 8377)
Tôi lặng người nhìn bức hình Tuệ Sỹ, vẫn gương mặt xương xẩu, vẫn đôi má lỏm sâu, vẫn cặp mắt rực sáng, vẫn gầy còm, chỉ là tóc đã bạc màu, y vàng nghiêm trang, kính cẩn cầm ba nén hương to, quì trước bàn thờ với bức ảnh hiền từ với nụ cười an lạc của Ôn. Ai nghe tin Ôn thị tịch cũng xúc động, cũng phải bái lễ, thọ tang. Thấy Thầy Như Minh từ Los cũng bay về, gương mặt buồn rầu như đang khóc tang. Chú cũng thuộc hàng hậu học, cũng tôn kính Ôn là bậc trưởng thượng, có gì lạ đâu. Chẳng có gì đặc biệt. Nhưng nếu có ai để ý, từ sau 1973, Chú không hề đặt chân lần nào nữa đến Vạn Hạnh, bấy giờ đã dọn về đường Trương Minh Giảng, chỉ trụ ở Già Lam, trên lầu, chia phòng với chú Dũng,[1] thì mới có thể hiểu được ý nghĩa của tấm hình này.
13/10/2014(Xem: 10456)
Vào ngày 21 tháng Chín, đông đảo công dân từ khắp nơi trên nước Mỹ, và từ nhiều vùng đất khác, sẽ được hội tụ về thành phố New York tham gia vào cuộc diễu hành về sự biến đổi Khí hậu (The People’s Climate March), đây được cho là cuộc diễu hành vì khí hậu lớn nhất trong lịch sử. Cơ hội trực tiếp cho cuộc diễu hành là sự tập hợp của các nhà lãnh đạo thế giới tại Liên Hiệp Quốc dành cho một hội nghị thượng đỉnh về sự khủng hoảng khí hậu được triệu tập bởi Tổng thư ký LHQ. Mục đích của cuộc diễu hành là báo cho các nhà lãnh đạo toàn cầu biết rằng thời gian để từ chối và trì hoãn đã qua, chúng ta phải hành động ngay nếu chúng ta muốn bảo vệ thế giới chống lại sự tàn phá về sự biến đổi khí hậu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]