Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Việt Nam, Những Huy Chương Vàng Sau Cuộc Chiến

22/05/201810:53(Xem: 9066)
Việt Nam, Những Huy Chương Vàng Sau Cuộc Chiến

               VIỆT NAM, NHỮNG HUY CHƯƠNG VÀNG SAU CUỘC CHIẾN

 

 

            Chiến Tranh Việt Nam, một cuộc chiến cần phải Viết Hoa vì đây là một biến cố quân sự và chính trị trọng đại trong dòng lịch sử đã lay động tận gốc rễ nếp nghĩ, cách nhìn và lương tri nhân loại.

            Nhóm chữ “Thế hệ Chiến Tranh Việt Nam” (Vietnam War Generation) đã trở thành một trong những cột mốc quan trọng trong nhiều mối quan hệ và giao lưu quốc tế.Sau 42 năm kể từ khi cuộc Chiến Tranh Việt Nam chấm dứt, người Việt trong cũng như ngoài nước phải đối mặt với nhiều thứ. Nhưng đối tượng quan trọng nhất mà hầu như mọi người đều phải đối diện là Thế Hệ Trẻ Việt Nam sinh ra và trưởng thành sau cuộc chiến.

            Với thế hệ chiến tranh Việt Nam thì sự chịu đựng trong gian nan, nguy khốn, sống chết cận kề đã trở thành nếp sinh hoạt bình thường. Nhưng giữa đêm dài của thân phận người dân trong một quốc gia nghèo đầy loạn lạc, ánh sáng cuối đường hầm vẫn loé lên. Đó là tương lai con cháu sẽ sáng sủa hơn, có cơ hội vươn lên; nhất là trong học hành và sự nghiệp. Giáo dục, học vấn, thành đạt là niềm mơ ước thường xuyên và tha thiết nhất của thế thế hệ ông bà, cha mẹ đối với thế hệ đàn em con cháu của mình.

            Sau cuộc chiến Việt Nam, có thể nói rằng những tấm huy chương vàng dát bằng hy vọng, ước mơ và tự hào chói sáng nhất cho thế hệ con em trong thời đại mới là sự thành đạt của tuổi trẻ trong học vấn. Đặc biệt là thân phận người Việt Nam tha hương trong một xã hội đa chủng tộc, nhiều văn hóa như xã hội Âu Mỹ phương Tây. Phương tiện thiện xảo nhất của tuổi trẻ Việt Nam nhằm thể hiện được giá trị đích thực của mình trước mắt cộng đồng thế giới là sự thành đạt trong học vấn và chuyên môn.

            Cùng chung lưng, đối mặt – tranh đua mà không tranh cãi, tranh thắng mà không tranh giành hay tranh chấp – với đồng môn, bằng hữu khắp năm châu là thành tựu học vấn:

 Những mảnh văn bằng tốt nghiệp của tuổi trẻ Việt Nam nơi xứ người có điểm nước mắt sung sướng của mẹ hiền, thắp sáng niềm vui của cha, sưởi ấm niềm tự hào của gia đình, giòng tộc, giống nòi... là những huy chương vàng sau cuộc chiến.

 

tot nghiep

 

             Mỗi năm, vào độ đầu hè như năm nay, tôi có niềm xúc động của người đã có nhiều duyên nợ với giảng đường, bụi phấn nên thường được mời đi tham dự lễ Tốt Nghiệp của các cháu học sinh và sinh viên trong cộng đồng người Việt cũng như các nhóm chủng tộc khác. Đầu mùa Tốt Nghiệp năm nay đã có anh chị Lê Cần mời ăn mừng con trai út tốt nghiệp đại học Sac-State, chính thức bước vào ngành Giáo dục Công lập. Anh chị Quang - Khuê mời tiệc vui con gái tốt nghiệp UC Davis, tiếp tục cấp học Graduate ở đại học Harvard. Nick Mazano báo tin con trai tốt nghiệp Luật khoa đại học Yale, vào internship ở văn phòng Thượng viện. Chị Kim Anh mừng hai con cùng tốt nghiệp Tiến sĩ Y khoa…

Thế nhưng bao giờ niềm tâm cảm của tôi đối với con em người Việt mình cũng có tác động sâu sắc hơn cả. Thông thường, trong một xã hội lạc hậu, chuyên chế chỉ có cảnh “con vua thì lại làm vua...”. Nhưng trong hoàn cảnh người Việt Nam của mình ở nước ngoài thì có khi “con sãi ở chùa” vẫn có cơ hội học hành, phấn đấu vươn lên như... con quan áo gấm về làng!

            Nếu có dịp đi qua những miền đất tự do như Úc, châu Âu, Mỹ, Canada... sẽ thấy được rằng, có những gia đình cha mẹ xuất thân là nông dân, ngư dân hay ra đi từ chốn quê mùa, bùn lầy nước đọng Việt Nam, nhưng thế hệ con cái lại thành công rực rỡ trong nhà trường nước ngoài.
            Đặc biệt là ở Hoa Kỳ, thế hệ trẻ học sinh sinh viên Việt Nam đã đứng vào hàng xuất sắc của châu Á. So với Trung Quốc, Nhật Bản, Đại Hàn, Ấn Độ... thì nòi giống Việt Nam không thua nửa bước trong nhà trường Âu Mỹ.
            Dưới mắt các nhà giáo dục và xã hội thì động lực chủ yếu giúp con em Việt Nam thành công trong nhà trường hải ngoại là do sức mạnh của gia đình và truyền thống hiếu học của văn hóa Việt Nam. Cụ thể nhất là sự cống hiến, hy sinh không mỏi mệt của cha mẹ là đòn bẩy vạn năng đưa thế hệ trẻ Việt Nam đến thành công trên đường học vấn.

Theo khảo nghiệm sơ kết của nhóm Vietnamese-American Education (Giáo Dục Người Việt Gốc Mỹ) tháng 4-2017 thì Thế Hệ Thứ Nhì (the Second Generation) của người Việt Nam tại Mỹ đạt được thành tựu học vấn đáng kể:

Sinh viên Việt Nam tốt nghiệp bậc Cử Nhân (Bachelor) hay tương đương với ngành học đại học 4 năm là 40% so với người Mỹ nói chung trong độ tuổi 25-34 đạt 37%.

Cấp học Thạc sĩ - Cao học (Master) hay tương đương với ngành học đại học 6 năm, người Việt độ tuổi 25-34 đạt 29 % trong khi con số thống kê người Mỹ nói chung đạt 25%.

Cấp học Tiến sĩ (Doctoral Degree) hay tương đương với ngành học đại học 8 năm thì trung bình người Mỹ nói chung đạt từ 1.8 % đến 2%. Chúng tôi chưa tìm được con số thống kê chính xác về cấp học tiến sĩ đối với người Việt nhưng qua tiếp cận và quan sát thực tế thì đa số người Việt ở hải ngoại có con cháu thuộc thế hệ thứ hai có được thành tích xuất sắc trong nhà trường Âu, Mỹ.

Nhưng xin thưa… (rất thân tình, cởi mở và vô tư) rằng: Tôi ở thành phố Sacramento, thủ phủ tiểu bang California đã 35 năm nên quen biết được rất nhiều người  trong cộng đồng người Việt tại vùng đất này. Hoàn toàn không có ý đại ngôn hay so sánh để làm vui hoặc buồn bà con mình, nhưng hôm nay ngồi kiểm lại khoảng trăm gia đình người Việt mà tôi được quen biết với trung bình 6 người (gồm cha mẹ và 4 người con) thì có khoảng 90% trong nhà có ít nhất là 1 cháu học xong 4 năm (Bachelor); 60% gia đình có 1 cháu học xong bác sĩ, nha sĩ hay dược sĩ. Đó là một con số thành đạt quá cao so với cộng đồng các dân tộc khác trên vùng đất nầy và toàn cảnh xã hội.

Để thay vào những con số khảo sát khô khan, tôi xin đưa ra một trường hợp minh hoạ:

Chiều thứ Bảy (19-5-2018), anh chị Hồ Đăng Định, tức nhà văn Quế Chi, tác giả Chuyện Ngày Xưa Nhớ Nhớ Quên Quên, Lê và tôi được chị Kim Anh, một phụ huynh thân hữu ở trong khu vực Little Saigon Sacramento mời dự tiệc Tốt Nghiệp của hai cháu út trai, và út gái của chị tốt nghiệp Y Khoa Bác Sĩ (Medical Doctor) từ UC Davis và Internship ở New York.

 

      
       chi kim anhChị Kim Anh và hai con vừa tốt nghiệp Bác Sĩ Y Khoa

 

Trường hợp gia đình chị Kim Anh là một dẫn chứng điển hình cho sự hy sinh và vai trò trọng yếu của cha mẹ trong sự thành đạt của con cái trên đất Mỹ (hay dù ở phương trời nào cũng giống nhau thôi).

Chị Kim Anh là một thuyền nhân vượt biển. Gia đình chị được định cư tại Hoa Kỳ, gồm có hai vợ chồng và 4 con: 3 trai, 1gái. Chồng chị đã qua đời cách đây hơn 20 năm khi chị ở vào lứa tuổi dưới 40. Chị đã đi làm nghề Nails để nuôi con ăn học. Ngoài thời gian kiếm sống, chị chuyên tâm lo công việc từ thiện và nấu ăn công quả cho các chùa chiền, tự viện.

Hai cháu trai con đầu và thứ hai của chị Kim Anh đều tốt nghiệp đại học với cấp học Thạc Sĩ - Cao Học (Master). Hai cháu đều đã trưởng thành và làm việc tại Hoa Kỳ theo nghiệp vụ chuyên môn của mình. Riêng chị Kim Anh thì vẫn giữ vai trò người Mẹ góa (single Mom) từ ngày chồng mất, gieo neo tranh sống lương thiện, ở vậy nuôi con.

Cháu Kim, tân khoa bác sĩ, tâm sự: “Cháu học cũng thường thôi. Cũng có những lúc cố gắng hết mình đến mức bị căng thẳng quá, cháu muốn chuyển qua ngành học nào khác cho dễ hơn. Nhưng khi nhìn mẹ làm việc cực khổ, còn lo lắng cho con đủ điều, cháu lại cố vươn lên. Vì thương mẹ quá, cháu đã gắng học cho mẹ vui!”

Hôm nay, trong tiệc chay mừng Tốt Nghiệp hai cháu ra trường bác sĩ, nhìn cảnh mẹ con chị Kim Anh sung sướng trong nụ cười đón khách, chúng tôi chúc mừng chị và các cháu; nhưng dù không nói, chúng tôi vẫn thầm lặng chúc mừng những bậc cha mẹ Việt Nam có con tốt nghiệp trong mùa Graduation đầy cảm động trên vùng đất tự do, hào sảng và “hiệp sĩ” nầy.  

Và, nhân mùa Tốt nghiệp, bãi trường năm học 2017-2018, xin được nhắc lại một lời khích lệ tuổi trẻ đáng suy gẫm của nhà giáo dục Robert Moliere: “Không có học trò nghèo mà chỉ có cha mẹ nghèo; không có người tốt nghiệp kém mà chỉ có xã hội kém không biết dùng người; không có tuổi trẻ sinh ra xấu  mà chỉ có gia đình tắc trách và xã hội suy đồi tạo ra sản phẩm xấu làm con người hư hỏng.”

 

Xin chúc quý vị phụ huynh cùng gia đình và các cháu học sinh, sinh viên một mùa Hè dồi dào sức khỏe, đầy tin yêu và nhiều nghị lực.

 

Sacramento, mùa Tốt Nghiệp – Bãi Trường 2018

                      Trần Kiêm Đoàn

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/02/2021(Xem: 5456)
Hình ảnh con trâu tượng trưng cho tâm ý của chúng sinh. Mỗi người ai cũng đều có một con “trâu tâm" của riêng mình. Và cứ như thế pháp chăn trâu được nhiều người sử dụng, vừa tự mình chăn vừa dạy kẻ khác chăn. Vào cuối thế kỷ mười ba, thời nhà Trần, trong THIỀN MÔN VIÊT NAM xuất hiện một nhân vật kiệt xuất. Đó là Tuệ Trung Thượng Sĩ tên thật là Trần Tung, ông là một thiền sư đắc đạo. Ông là người hướng dẫn vua Trần Nhân Tông vào cửa Thiền và có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng của vị vua sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử này.
08/02/2021(Xem: 4458)
Sau khi đạt được Giác ngộ, Đức Phật nêu lên Bốn Sự Thật và sự thật thứ nhất là "Khổ đau". Khổ đau ẩn chứa trong thân xác, bàng bạc trong tâm thức của mỗi cá thể con người và bùng ra cùng khắp trong thế giới: bịnh tật, hận thù, ích kỷ, lường gạt, đại dịch, bom đạn, chiến tranh... Sự thật đó, khổ đau mang tính cách hiện sinh đó, thuộc bản chất của sự sống, gắn liền với sự vận hành của thế giới. Sự thật về khổ đau không phải là một "phán lệnh" hay một cái "đế", cũng không mang tính cách "kỳ diệu" gì cả, mà chỉ là một sự thật trần trụi, phản ảnh một khía cạnh vận hành của hiện thực.
07/02/2021(Xem: 5327)
Nhà thiền có danh từ Tọa Xuân Phong để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp. Danh từ đó, tạm dịch là “Ngồi Giữa Gió Xuân” Mùa Xuân chẳng phải là mùa tiêu biểu cho những gì hạnh phúc nhất trong bốn mùa ư? Hạ vàng nắng cháy, vui chơi hối hả như đàn ve sầu ca hát suốt mùa để cuối mùa kiệt lực! Thu êm ả hơn, nhưng nhìn mây xám giăng ngang, lá vàng lả tả, tâm- động nào mà không bùi ngùi tưởng tới kiếp nhân sinh?
07/02/2021(Xem: 5540)
Chú mục đồng chậm rãi bước xuống sông. Bên cạnh chú, con trâu lớn nhất đàn ngoan ngoãn xuống theo. Đôi mắt hiền lành của nó nhìn chú như mỉm cười, tin tưởng và thuần phục. Những con trâu bé hơn lại nhìn bước đi vững chãi, an lạc của con trâu đầu đàn mà nối nhau, cùng thong thả qua sông. Đây là khúc sông cạn mà chú đã dọ dẫm kỹ lắm. Đáy sông lại không có những đá nhọn lởm chởm có thể làm chân trâu bị thương. Bên kia sông, qua khu rừng có những cội bồ đề râm mát là tới đồng cỏ rộng. Mùa này, sau những cơn mưa, cỏ non vươn lên xanh mướt, đàn trâu gồm bẩy con mà chú có bổn phận chăm sóc tha hồ ăn uống no nê sau những giờ cực nhọc cầy bừa ngoài đồng lúa.
07/02/2021(Xem: 8675)
Khi những cơn bảo và áp thấp nhiệt đới hung hãn nhất vừa tạm qua đi, khí trời phương Nam cũng trở buồn se lạnh. Nhiều người cho đó là hoàn lưu của những cơn bão miền Trung mà tất cả con dân “bầu bí chung dàn” vẫn còn đang hướng về chia sẻ, nhưng ít người nhận ra rằng đó chính là cái se lạnh của mùa đông phương Nam, báo hiệu mùa xuân sắp đến nơi ngưỡng cửa của bộn bề lo toan hằng năm.
06/02/2021(Xem: 6562)
Mười bức “Tranh Chăn Trâu” trong phần này là của họa sư Nhật Bản Gyokusei Jikihara Sensei, vẽ vào năm 1982 nhân một cuộc thăm viếng thiền viện Zen Mountain Monastery ở Mount Tremper, New York, (Hoa Kỳ). Họa sư vẽ để tặng thiền viện. Các bài thơ tụng thời nguyên gốc của thiền sư Quách Am viết vào thế kỷ thứ 12. Thơ tụng được chuyển dịch ở đây bởi Kazuaki Tanahashi và John Daido Loori, sau đó được nhuận sắc bởi Daido Loori để mong tạo lập ra những hình ảnh và ẩn dụ cho thêm giống với phong cảnh núi sông ở quanh thiền viện Zen Mountain Monastery. Thiền sư Daido Loori là người lãnh đạo tinh thần và là tu viện trưởng của thiền viện này.
04/02/2021(Xem: 6280)
Hôm qua mình có giới thiệu cuốn sách Buddhism in America (Phật Giáo Mỹ) của Richard Hughes Seager. Có bạn hỏi thêm muốn tìm hiểu Phật Giáo Mỹ nên nhờ mình giới thiệu vài cuốn. Nghĩ rằng đây là câu hỏi hay nên mình xin viết giới thiệu 7 cuốn sách để nhiều người lợi lạc. 1. Cuốn The Faces of Buddhism in America (Diện Mạo của Phật Giáo ở Mỹ) do Charles Prebish 2. Buddhist Faith in America (Đức Tin Phật Giáo ở Mỹ) tác giả Michael Burgan 3. Buddhism in America của Richard Huges Seager (1999, tái bản 2012) 4. Buddhism in America của Scott Mitchell 5. Altered Traits: Science Reveals How Meditation Changes Your Mind, Brain, and Body, 2017 6. A Mindful Nation: How a Simple Practice Can Help Us Reduce Stress, Improve Performance, and Recapture the American Spirit, 2012, 7: American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
01/02/2021(Xem: 4569)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 9824)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 6288)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]