Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những Cánh Chim Hải Âu Trên Sông Hằng, Ấn Độ

29/04/201819:41(Xem: 7040)
Những Cánh Chim Hải Âu Trên Sông Hằng, Ấn Độ

NHỮNG CÁNH CHIM HẢI ÂU

TRÊN SÔNG HẰNG, ẤN ĐỘ

Thích Nữ Giới Hương

Hải âu là tên một loài chim màu xám trắng xinh xắn sống ven sông biển. Khi mặt trời vừa mọc, tiếng sóng nước gợn lăn tăn hòa lẫn âm thanh kinh kệ ngâm nga vang rền từ các đền tháp, thì vô số chim trời hải âu từ đâu đó bắt đầu xuất hiện trên Sông Hằng, thành phố Ba-la-nại, để múa lượn mừng ngày nắng mới và dùng điểm tâm thực phẩm do các khách hành hương bố thí.

 Nhung-Canh-Chim-Hai-Au-0000

Ni sư Giới Hương đang bố thí mì sợ chiên cho chim hải âu trên Sông Hằng, ngày 15/12/2017

 

 

 

Chim hải âu rất thân thuộc với con người, đặc biệt là với những người đi sông biển và người bố thí thực phẩm cho chúng. Chúng có thể đậu trên vai hay tay của mình mà không sợ để mổ thực phẩm, giống như các chú sóc liếng thoắt xinh xắn ở trường Đại Học Delhi, Ấn độ mà tác giả đã từng sống ở đó mười năm.

Chim hải âu là một trong nhiều loài súc sanh. Súc sanh là một trong sáu loài chúng sanh (trời, a-tu-la, người, súc sanh, ngạ quỷ và địa ngục) trú trong vũ trụ bao la này. Chim, gà, vịt, ngỗng, ngan, được xem là loài súc vật có xương sống, hai chân và hai cánh.

Theo vòng luân hồi[1], vòng hay vị trí trung tâm điều đình chỉ huy toàn bộ bức tranh được vẽ chính giữa của bánh xe luân hồi. Trong tranh vẽ hình con chim hải âu (hay bồ câu), rắn và heo. Ba con vật này là tham, sân, si, đã chỉ huy và điều khiển cho bánh xe chuyển quay,

nên nó là điểm trung tâm quan trọng. thoát, khó chịu ngóc đầu lên.

Đức Phật dạy: Tham dục là một hố than hầm, người bịnh (tức chúng ta) tưởng lầm là ấm áp sung sướng, nên đâm đầu vào.

 

Nhung-Canh-Chim-Hai-Au-0002

Theo khoa học có hàng vạn loại khác nhau. Chúng ta đọc tên từng loài, quán tưởng những hình tướng khốn khổ của loài bàng sanh với một tấm lòng tận thân tâm thương xót chúng, ban rải tình thương đến chúng, kết thắng duyên Tam Bảo để sau này chúng gặp được nhân duyên tam bảo mà tỉnh ra. Một con chim hải âu xinh xắn, chúng ta vuốt ve yêu mến nhưng đâu biết rằng sau chúm lông xanh, vàng, đỏ, tía xinh xắn đó chất chứa vô vàn đau đớn, lo âu, khốn khổ chập chùng.

Trong vòng sanh tử vô tận biết bao nhiêu lần chúng ta đã mang những lớp da thú này. Phải né, phải tránh, không nên gieo những chủng tử gà, rắn, heo để đừng tái sanh vào cõi bàng sanh. Đức Phật dạy cái khổ ngu si là đáng sợ hơn cả. Ngu si là mê muội, không biết tránh ác làm lành để đến nỗi tự đọa đày, đọa vào thân thú, địa ngục và ngạ quỷ. Thân loài sanh tử nào cũng là một ổ phiền não, một ổ khổ đau và một ổ đọa lạc.

Một khi đã đọa mang lớp da thú vật thì trăm kiếp ngàn đời khó ngóc đầu ra. Muôn loài vạn vật, sống đọa đầy, chết đắng cay. Một con bọ chét chạy trong người chim, ta không chịu được, thế mà chim hải âu ngày đêm hàng trăm bọ mạt rúc rỉa mà không nói được và cứ phải chịu đựng trọn đời, không một lúc nào ân xá. Cho nên, thân chim đọa lạc và chịu đầy đau khổ thương tâm lắm.

Thông thường tội nào nặng lắm mới đọa làm thú. Dưới ánh mắt của con người thì loài thú không có nhiều giá trị và xem như thuộc ‘đẳng cấp’ thấp so với loài người. Thường thì con người dùng thú vật có nhiều lý do như làm thức ăn khoái khẩu cho người, thực hiện các thí nghiệm khoa học hay phục vụ con người… Mặc dù thời gian gần đây ở các nước tiên tiến có luật bảo vệ thú vật hoặc có luật bảo vệ các loài có nguy cơ tuyệt chủng, nhưng nói chung, thú vật vẫn thuộc ‘đẳng cấp’ thấp kém so với loài người. Vì sao đọa mang thân thú? Ai tạo những nghiệp bỉ ổi, thấp hèn, mất giá trị, mất nhân phẩm sẽ bị đọa làm thú và ở thân thú này bị coi thường và khinh rẻ.

Những nghiệp nào là hèn hạ và mất nhân phẩm? Đó là tà dâm, loạn luân, phá vỡ luân thường đạo lý loài người, dục vọng không biết kềm chế, không có lý trí hướng dẫn, hành động tương đương với dục vọng của loài thú. Người nào nghiệp giống với loài thú sẽ đưa người đó đi đến kiếp thú về sau. Hoặc lòng ích kỷ tột độ biến thành hành vi tranh giành, xâu xé đồng loại, không thương xót cũng rất giống với loài thú; dùng thủ đoạn để bức hại kẻ khác, sống cho bản năng ích kỷ, chỉ nghĩ đến mình thì sẽ đọa làm thú là điều khó tránh khỏi.

 Nhung-Canh-Chim-Hai-Au-0004

Chim hải âu hưởng nước thiêng Sông Hằng

khi mặt trời mọc

 

 

Chúng ta cứ lấy sự thống khổ của các loài khác làm trò vui chơi. Giết hại sinh linh thết khách, bày tiệc mời người ăn. Con chim, con heo, con trâu bị cắt cổ giãy giụa kêu la, lại thêm nước sôi dội xối; trong khi trên thềm nhóm họp bạn bè, dưới thềm âm nhạc vui vầy đờn ca, bàn chuyện thị phi thiên hạ. Đình thần đền miếu đều là những đàn tràng gây đầy ân oán. Thui ngan, nướng vịt, mổ heo, thịt dê khác gì quỷ la-sát, dạ-xoa…

Phải 500 con tằm mất mạng mới thành một chiếc khăn. Mấy chục con thỏ chết, mới có chiếc áo ấm. Người có thiện tâm hãy suy nghĩ, nỡ nào an lòng mặc dùng. Chúng ta cứ ăn thịt mà không biết nỗi đau của một con vật bị giết hay bị đưa lên lò sát sinh. Xin được kể một câu chuyện minh hoạ rằng:

Có một anh thanh niên nọ có thói quen săn thú. Một hôm rượt đuổi theo dấu máu của con nai bị trúng tên, cuối cùng anh thấy nai nằm thở thoi thóp dưới chân một nhà ẩn sĩ đang toạ thiền trên tảng đá. Nhà ẩn sĩ khuyên anh nên bỏ thú vui này mà hãy thương nổi đau đớn của nai khi trúng tên như nỗi đau đớn của chính mình. Anh đứng im lặng.

Nhà ẩn sĩ liền dùng ngón tay của ngài ấn vào thân con nai đã chết, còn tay kia nắm lấy tay của chàng thợ săn, truyền nỗi thống khổ của con nai lúc chết cho chàng. Vừa đụng vào thì anh giật nảy mình và biến sắc, anh như cảm nhận được nổi thống khổ vô cùng về thể xác và tâm linh của con nai lúc chết. Anh như thể nghiệm được toàn bộ quá trình cái chết của con nai, toàn thân nó toát mồ hôi lạnh, run rẩy, nhịp tim dần dần ngưng lại. Anh đau đớn và hiểu được săn bắn là một hành động ngu xuẩn, tàn ác, từ đó anh không dám săn bắn nữa.

Người có nhân quyền, còn thú có nhân quyền không? Khi văn minh nhân loại tiến bộ, khi tư duy con người phát triển cao hơn, khi thế giới tâm linh con người phát huy tuyệt đối đến mức cao nhất, ta và chúng sanh bình đẳng, lý trí dần dần vượt khỏi sự kềm tỏa của bản ngã, sẽ thấy tha (người và súc vật khác) và tự (mình) giống nhau và ngay cả thú vật cũng bình đẳng, thì lúc đó hy vọng thú cũng được tôn trọng, thương yêu và đối xử như con người.

Kinh Địa tạng dạy: Chúng sanh trong cõi diêm phù, cất chân dấy niệm đã phạm tội. Gặp việc thiện thì dễ thoái tâm. Gặp ác duyên lại càng thêm mạnh. Nếu không gặp thiện tri thức chỉ đường dẫn lối giải thoát sẽ khổ mãi không cùng.

Tóm lại, từ bản lai thanh tịnh, một niệm bất giác sinh sở năng đối đãi bất nhị[2] mà có y báo, chánh báo, có sinh vật xuất hiện, rồi sau đó động vật chính thức ra đời có tâm thức phức tạp, có tạo nghiệp nhân để thọ quả báo. Ai đã làm thành, tạo thành động vật có tâm thức để cho động vật đó phải lăn lóc đấu tranh vì sự sống một cách cực khổ? Chính những tâm thức của chúng ta tạo ra.

Trong sự đấu tranh để sinh tồn đó, các động vật khi thì giúp đỡ lẫn nhau (thiện), khi thì xâu xé lẫn nhau (ác) tạo thành vô số nghiệp thiện và ác lẫn lộn đưa đẩy chúng sanh trôi lăn trong luân hồi không bao giờ dứt.

Theo thông tin “Những khám phá bất ngờ về Chim hải âu” trên online, chim hải âu có khứu giác cực kỳ nhạy bén, cho phép chúng nhận ra mùi của những con mồi thực phẩm ở khoảng cách tới 20km. Đặc biệt, loài hải âu lớn có thể bay liên tục trên một quãng đường lên tới 15.000km. Hành trình này thậm chí còn xa hơn một chuyến bay thẳng từ Hà Nội đến New York (khoảng 13.000 km). Hải âu có “nghi lễ” giao phối rất độc đáo. Khi cặp hải âu nào có ý định kết đôi, chúng sẽ tìm cách “chụp” mỏ nhau để tạo tiếng động vui tai. Trong khi đó, những con chim lẻ loi khác cũng phát ra âm thanh lách cách cho đến khi tìm được bạn tình. Hải âu chỉ chọn con nào phát ra tiếng kêu đồng điệu với mình.
Nhung-Canh-Chim-Hai-Au-0003

Chim hải âu đang thưởng thức thực phẩm bố thí

của Ni Sư Giới Hương

Chim hải âu lông vũ trên sông Hằng sải cánh cưỡi gió, lướt sóng, lượn hàng giờ không ngưng nghỉ, chúng có thể nổi trên mặt nước như vịt, ngỗng. Chúng chủ yếu ăn thực phẩm do khách hành hương bố thí hoặc mổ cá bơi theo bầy trên mặt sông hoặc tìm thực phẩm ở đất liền. Hải âu, các thuyền hành hương và các anh bán bánh trên đò có mối quan hệ khá thân thiết với nhau như bạn bè hổ tương để sinh tồn. Chỉ cần khách mua thực phẩm xong, rải bánh xuống sông, anh chèo đò kêu báo tin vui: “ươm, ươm, ươm…” là từng đàn chim hải âu sải cánh dài bay tới chí chóe tranh nhau ăn và rồi nằm nổi trên mặt nước rỉa lông chơi hoặc bay cao trên bầu trời chao lượn múa biểu diễn tạ ơn, tạo nên một hình ảnh đáng yêu ngoạn mục hòa hợp giữa loài vật, con người và thiên nhiên.

Hải âu có tuổi thọ cao, có thể sống tới 60 năm, nhưng lại loài sống trong ngu ngơ theo nghiệp thú, không giác biết, không hiểu phật pháp và tu tập như loài người. Cho nên, đây là một trong muôn loài đáng thương, đi từ khổ vào khổ, dù đang được uống nước Sông Hằng, được xem là Sông Thiêng Ấn Độ.

 Nhung-Canh-Chim-Hai-Au-0001

Chim hải âu múa lượn tranh nhau ăn

 Giới Bồ tát dạy chúng ta mỗi khi gặp một loài thú nào cũng nên quy y và chúc nguyện cho chúng. Cho nên, chúng ta một lòng nguyện cho chúng sớm bỏ thân thú, thân chim hải âu thành người gặp Tam Bảo[3] tu hành.

Nam Mô Trang Nghiêm Bồ Đề Hạnh Bồ Tát Ma ha tát tát đại chứng minh.

Viết tại Sông Hằng, Ba-la-nại, ngày 15/12/2017

Thích Nữ Giới Hương

 

([email protected])

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/10/2014(Xem: 8630)
Bằng cách này hay cách khác, Đức Phật luôn gợi nhắc cho chúng ta rằng mỗi người chúng ta đều sở hữu các khả năng và phẩm chất tốt đẹp, cần phải biết vận dụng và phát huy để làm cho cuộc sống trở nên giàu sang hiền thiện, tránh mọi khổ đau và để thực nghiệm hạnh phúc an lạc. Trong bài kinh Nghèo khổ thuộc Tăng Chi Bộ, Ngài đơn cử câu chuyện một người nghèo túng về của cải vật chất nhưng không biết cách nỗ lực khắc phục tình trạng nghèo khó của mình nên phải liên tiếp rơi vào các cảnh ngộ khó khăn để nhắc nhở chúng ta về các tai họa khổ đau mà chúng ta sẽ phải đối diện, nếu không biết nỗ lực nuôi dưỡng và phát huy các phẩm chất đạo đức và trí tuệ của mình.
23/10/2014(Xem: 10179)
Tục lệ, hay những lễ nghi đã trở thành thói quen, là văn hóa được ước định của một dân tộc. Sự hình thành tục lệ thường chịu ảnh hưởng của phong tục tập quán trong dân gian, hoặc do sự thực hành các tín ngưỡng tôn giáo lâu ngày của một cộng đồng. Sau khi truyền vào Trung Quốc, Phật giáo không chỉ đi sâu vào dân gian, hòa nhập với đời sống, từng bước hình thành nên một bộ quy phạm lễ nghi về “hôn táng hỷ khánh” (dựng vợ gả chồng, chôn cất người chết, thể hiện niềm vui, bày tỏ việc mừng); mà còn có tác dụng thay đổi phong tục đối với các thói quen dân gian mang đậm màu sắc mê tín trong các việc như: tổ chức hôn lễ rườm rà; đoán số mệnh dựa trên bát tự(1); miễn cưỡng tổ chức việc vui trong lúc gia đạo đang gặp rắc rối với mong muốn giải trừ vận xui, tà khí, chuyển nguy thành an, gọi là xung hỷ; thực hành tục minh hôn(2); duy trì lối khóc mộ; xem phong thủy…
23/10/2014(Xem: 9509)
Từ Thiện chỉ là Tu Phước, đó là cành lá hoa trái, nhưng Tu Huệ là gốc rễ , có chăm sóc cội gốc thì cây Bồ-Đề mới xanh tươi, đó là Phước Huệ song tu, là Tâm Hạnh của một vị Bồ-Tát, Một vị Phật tương lai, hiện tại phải Hành Bồ-Tát Đạo, Phục vụ chúng sinh là cúng dường Chư Phật, Bồ-Tát Giới thì cũng có Xuất gia và Tại Gia, Người con Phật phải luôn tưởng nhớ đến Tánh Phật vốn sẵn nơi chính Thân Tâm Ngũ Uẩn nầy, Người Tu Phật phải luôn nhìn lại chính mình, nếu hiểu được chính Thân Tâm mình, thì sẽ hiểu được người khác, (Tức Quán một Pháp thông, thì tất cả các Pháp đều thông) Người Giác Ngộ đối với Thân Tâm này, chỉ thấy là như hạt bụi, rời hơi thở rồi thì thiêu đốt thành tro, Muốn giải thoát Luân Hồi Sanh Tử, thì sống chấp nhận trả Nghiệp quá khứ, mà không tạo thêm Nghiệp tương lai, Bằng cách, nếu có người phiền não Ta, hay tức giận Ta, thì liền xin lỗi, đó là chấp nhận trả Nghiệp cũ, mà không tạo thêm nghiệp mới,
22/10/2014(Xem: 8487)
Tôi thường đeo một xâu chuỗi nhỏ ở tay, cũng nhiều năm rồi, như một sở thích, như một thói quen. Nhiều người thấy lạ thường hỏi, mang xâu chuỗi chi vậy? Tu hả? Cầu xin gì hả? Thường thì tôi chỉ cười thay câu trả lời vì cũng hơi rắc rối để giải thích.
21/10/2014(Xem: 8874)
Tôi may mắn có mặt trong buổi tối quý giá mà đông đảo Phật tử và thanh niên Hà Nội đã được học hỏi từ Sư bà Thích Nữ Giác Liên, một vị ni sư có 2 dòng máu Ấn – Việt, và là tác giả của cuốn “Đường về xứ Ấn”, tại nhà sách Thái Hà (119 C5 phố Tô Hiệu, phường Nghĩa Tân, quận Cầu Giấy, TP Hà Nội). Sư bà Thích Nữ Giác Liên sống ở Bồ Đề Đạo Tràng, Ấn Độ đã 7 năm, đã đi giảng Pháp tại nhiều nước trên thế giới. Sư bà cũng là tác giả của nhiều bản đạo ca nổi tiếng.
21/10/2014(Xem: 6651)
Đối với người đời, không có phước đức nào lớn cho bằng vợ đẹp, con khôn, của cải đầy kho, quyền thế, danh vọng, ăn ngon mặc đẹp… Thế nhưng bạn ơi, -Biết bao nhiêu ông thủ tướng, tổng bộ trưởng bị tù đày vì tham nhũng, gian trá, lạm quyền…thậm chí buôn lậu, dâm ô. Biết bao nhiêu ông tổng thống bị ám sát, lật đổ cũng chỉ vì tranh giành quyền lực. -Ông bố đốt tờ giấy bạc mà người nghèo có thể mua bao gạo để tìm một món đồ cho cô đào cải lương đánh rơi trong phòng trà…vài chục năm sau ông con lại sống như kẻ ăn mày. -Ông bố cặm cụi làm việc suốt đời tao dựng gia tài khổng lồ. Ông con trở thành “công tử” ăn chơi phung phí, bao gái, đua đòi, ném tiền qua của sổ…chẳng mấy chốc phá nát sự nghiệp của cha ông.
20/10/2014(Xem: 21490)
Đây là một trong những câu hỏi mà phóng viên tờ Mandala đã phỏng vấn bác sĩ Alan Molloy, một thành viên lâu năm của Viện Phật học Tara ở tiểu bang Melbourne, Úc, một người đã chứng kiến sự phát triển của đạo Phật tại quốc gia này từ cuối thập niên bảy mươi đến nay.
20/10/2014(Xem: 7456)
Là tín đồ Phật giáo từ năm mười bảy tuổi, đạo hữu luật sư Christmas Humphreys (1901-1983) không thuộc bất cứ một giáo phái nào của Phật giáo. Ông tin vào Phật giáo thế giới, và ông nghĩ rằng: “chỉ trong sự phối hợp của tất cả các tông phái người ta mới có thể thấy trọn vẹn sự vĩ đại của tư tưởng Phật giáo” (only in a combination of all schools can the full grandeur of Buddhist thought be found). Để làm cho quan điểm của mình được Phật tử trên thế giới chấp nhận, ông đã trình bày Mười hai nguyên tắc của Phật giáo (Twelve Principles of Buddhism) nổi tiếng của mình vào năm 1945, được dịch ra 14 thứ tiếng và được nhiều tông phái Phật giáo trên thế giới chấp nhận. Mười hai nguyên tắc ấy có điều giống với Mười Bốn Nguyên Tắc của Đại Tá Olcott giới thiệu trong tác phẩm Phật pháp vấn đáp (Buddhist Catechism) của ông, được xuất bản vào cuối thế kỷ thứ 19.
17/10/2014(Xem: 7070)
Bài viết “Phật trên hè phố Oakland” của nhà báo Trần Khải, tiếp tục được tải truyền rộng rãi trên các website. Bài viết ghi lại đại cương sự kiện phóng viên Chip Johnson kể lại trên báo SFGate.com về một pho tượng Phật đã đem lại sự bình an, sạch sẽ cho một khu phố nhiều tội ác và rác rưởi trước đây. Chi tiết đặc biệt đã thu hút người đọc, là pho tượng Phật Thích Ca bằng đá, chỉ cao khoảng 2 feet, được đặt ở góc đường 11 và đường 19, trong khu Eastlake, thành phố Oakland , là do một người vô thần, tình cờ nhìn thấy tại một tiệm bán vật liệu xây cất.
16/10/2014(Xem: 13993)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đại mà con người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh. Tuy nhiên theo lời Phật dạy, Phật từ tâm, tâm sinh Phật, để đưa đến giải thoát giác ngộ. Do đó nếu đã là Phật tử rồi thì nhất định phải tin lời Phật dạy, hơn nữa Kinh Hoa Nghiêm còn nói: “niềm tin là mẹ của công đức”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]