Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ra Đi và Trở Về

27/04/201809:06(Xem: 6186)
Ra Đi và Trở Về


duc the ton 2

RA ĐI VÀ TRỞ VỀ

Thích Tâm Tôn






Ra đi và trở về là hai mệnh đề rất rộng trong nhiều phạm trù của cuộc sống. Có thể hiều theo ý nghĩa chu kỳ hai chiều vận hành đến và đi hiện hữu trong phạm trù tuần hoàn thời gian, hay lẽ phân định khoảng cách gần- xa hai hướng trong phạm trù không gian hữu hạn, và có thể là lẽ tất nhiên phải trải qua của cả một đời người bởi hai điều sống- chết sẽ đi qua theo qui luật vô thường…. Nhưng có lẽ hơn hết, hiểu theo cách rất giản dị của nhà Thiền về ý nghĩa cuộc sống chính là tìm hiểu và thấy được của trải nghiệm, hay khám phá và Tuệ tri các pháp trong sự hiện hữu như chính là. Nếu ra đi là tìm kiếm, thì trở về chính là thấy được. 

Cụ bà gầy guộc ngày qua ngày vẫn ngồi bên gốc nhỏ của con đường xin ăn từng bửa lẻ. Ta vẫn ngày ngày chừng ấy thời gian ngang qua theo sự bôn ba của dòng người xuôi ngược. Những vô tình còn nhiều toan tính kéo xa ta với tình thương mà lẽ ra rất cần trang trải nhiều hơn mỗi ngày cho chính cuộc sống với những diễn tiến trước mắt này. Bất chợt một buổi sáng, em bé nhỏ trên đường theo mẹ đến trường xin được dừng xe để trao cho người ăn xin nửa phần ổ bánh mì mẹ vừa mua  mà lẽ ra em phải dùng hết cho buổi sáng. Bao chạnh lòng về một hành động rất nhỏ, nhưng mang một tâm hồn rất đẹp như được thức dậy sau đêm dài vị kỷ giữa dòng người hối hả cùng với sự dằn vặt trĩu nặng sâu thẳm nội tâm của bao suy tư. Thật sự ta đã bỏ lại rất nhiều điều mà lẻ ra rất cần nhiều lưu tâm giữa cuộc sống đầy thờ ơ này. Chính ta rất cần những gì ý nghĩa thật của cuộc sống đang trôi đánh thức mỗi ngày để những điều tích cực không bị ngủ vùi bất động không cơ hội hồi sinh. "Sứ mệnh”  hai từ nghe to tát quá với những gì rất nhỏ bé mà thường ngày ta vẫn chưa thể làm được một cách chân thật vốn dĩ, thua xa sự hồn nhiên với việc làm của em bé dành cho cụ bà ăn xin giữa gốc nhỏ ồn ào. 

Mõi chúng ta  đều đã đi qua cuộc đời này trong giới hạn nhất định nào đó. Và phần lớn cuộc sống ấy, hoặc là chủ động hoặc là bị động luôn cố hướng tới như chỉ có những gì ở phía trước mới là đích nhiệm màu. Những giá trị chân thật nhất vẫn thường hiện hữu trong những điều dung dị nếu tận dụng được sự kiểm nghiệm chân thành. Có khi nét đẹp sâu thẩm bao la vô cùng cũng hiện hữu gần gũi ngay giữa cuộc sống quanh ta. 

Tôi đã xem qua tác phẩm kí sự rất hay tên A Walk In The Woods (Chuyến Cuốc Bộ Trong Rừng) của kí giả  Bill Bryson được Ken Kwapis chuyển thể thành phim. Sau hai thập kỷ sống ở Anh, Bill Bryson quay trở về Mỹ, nơi ông quyết định rằng cách tốt nhất để gắn mình với quê hương và những cảm nhận chân thật  hồn nhiên nhất là  thực hiện chuyến bộ hành tiến vào rừng Appalachian Trail cùng với một trong những người bạn thân nhất của ông tên Stephen. Đặc biệt, trong chuyến du hành của hai người, các ông không bỏ qua bất cứ một điều nhỏ bé nào mà hai ông bắt gặp được. Từ những điều nhỏ có những cuộc đối thoại giữa hai ông già giống như hai cậu bé tóc bạc biết triết lí về cuộc sốngTônbằng những suy nghĩ của cả một cuộc đời chín mùi những từng trải theo cách hết sức mộc mạc hồn nhiên. Hai ông đã trượt chân kéo nhau ngã xuống suối. Trong khi bò lồm cồm dưới nước với hai ba lô ướt đẫm sau lưng, hai ông vẫn nói nhau rằng: ôi thật khoan khoái.  Stephen thắc mắc: Tại sao cuộc sống của hai chúng ta xem như quá đủ rồi, lẽ ra cuộc đời của ông và tôi đơn giản là giờ nghĩ đến chiếc Volvo, chứ đâu cần phải đi thế này. Thật ra chúng ta cần gì chứ?  Bill Bryson trích câu nói của một nhà triết lí tên John Muir nào đó: "đôi khi con người cần phải lấy một ổ bánh mì cất vào bao tải rồi nhảy qua hàng rào chắn sau lưng”. Blii Bryson cho rằng: không phải vì sự hoàn hảo bên trong hàng rào, mà là ông ta có lí do của mình. Stephen tiếp lời: thật ra ông là con thú bị giam cầm muốn trở về khu rừng sống lại một chút. còn tôi là con nợ chưa trả nổi số nợ còn lại. Cả hai ồ cười thật thoả chí. Stephen có ý nhắc lại: tại sao hai chúng ta tới đây? câu trả lời là: tại ông không có việc gì tốt hơn để làm. Thế mà khi Stephen hỏi: ông thấy có hạnh phúc không? Bill Bryson ngạo nghễ hỏi lại: Câu hỏi kiểu quái gì thế? và ngay lúc đó, trước mắt họ lại hiện ra cảnh những ngọn núi trùng điệp thật đẹp khiến cả hai đều thấy thoả chí lạ kì. Và từ đó họ có thể khám phá những lớp trầm tích huyền bí có lịch sử hàng triệu triệu năm. Có một điều rất đặc biệt trong câu chyện của hai ông. Stephen là người có thói quen uống rượu và rất thích những cảm giác hưng phấn với những gì từ rượu mang đến. Ông đã giấu chai Whisky trong ba lô suốt chặng hành trình đã qua mà người bạn đồng hành không hề biết. Rồi đến lúc Ông cần lấy nó ra và tâm tình với người bạn của mình khi ý chí chủ quan của ông đủ mạnh để chiến thắng những cảm giác thường tình. Tôi mang theo nó để nhắc tôi sẽ không dùng đến nó nữa trong khoảng thời gian còn lại của cuộc đời. Và người bạn đã tin ông làm được điều đó. Ông nhờ người bạn mở nấp chai rượu và tự tay đổ chai rượu. Một câu chuyện rất đẹp về lòng tự tin, ý chí, và sự giải thoát thật sự tự tại từ chính những thứ tưởng chừng như là hệ luỵ mà ta không thể vượt qua được.

Cách đây không lâu, Hoà Thượng Nhất Hạnh đã trở về Huế-quê hương Ngài được sanh ra và tiếp nhận mạch sống cả nghĩa đạo lẫn đời, như thực hiện một điều kì diệu trở về với những gắng kết tâm tình sâu thẳm. Sự thôi thúc của lẽ sống tự nhiên được tăng thượng bởi nội tâm giàu chất liệu mới có thể gắng kết một cách trọn vẹn những hiện hữu lại với nhau. Đó là lí do tại sao Hoà thượng Nhất Hạnh cuối cuộc đời mong được trở về với đất mẹ để cho đôi chân gầy guộc của mình đã một đời hành cước khắp nơi, được tiếp xúc thêm một lần nữa với tình thương của hồn quê hương vô tận nuôi dưỡng trong mạch sống của mình. Một con người thân bịnh phải ngồi trên xe, thế nhưng khi Ngài chạm đôi bàn chân trên lòng đất mẹ đã thể hiện lên tất cả sức mạnh của sự vững chãi đầy thanh thoát từ sâu thẳm tâm thức kiên định. Một sự trở về không chỉ có giá trị său sắc mang nét đẹp văn hoá cội nguồn, mà còn chính là chuyến trở về thể nghiệm đủ cả nét đẹp văn hoá tâm linh với chính Ngài và cho tất cả chúng ta. Con người của văn hoá dân tộc được thể hiện  giản đơn như thế, thiền sư của văn hoá tâm linh giải thoát được thể hiện nhẹ nhàng trong việc làm mang ý nghĩa tinh tế là thế, chứ cần đâu những logo cố sức trang hoàng nhuệch nhoạc được gắng đâu đó khoe khoang mới thể hiện được những gì của giá trị. Thật xúc động cho ai được chứng kiến sự tiếp xúc diệu kì ấy giữa một nơi chứa đủ nội hàm của sức sống được thực hiện bởi một hiện hữu với những tương quan hình thành nên sự hiện hữu đó như hai năng lượng lạ thường biểu hiện trong một gắng kết. 

Trong nhiều kinh đức Phật dành nhiều lưu tâm khuyên các thầy Tỳ Kheo: "Này các Tỳ Kheo, các thầy hãy ra  đi mỗi người một ngã. Hãy vì sự tốt đẹp của nhiều người”. Đây đích thực là cách ra đi theo ý nghĩa trở về.  Và đọc qua kinh Du Hành, nói về hành trình nhiều tháng cuối cuộc đời của đức Phật, càng thấy hình ảnh đức Phật thân thương như thế nào qua những điều hết sức dung dị và đẹp biết bao trong ý nghĩa trên.

Ngoài 80 tuổi, đức Phật thực hiện một chuyến đi nhiều tháng với hành trình 13 xứ sở lớn nhỏ là điểm sáng tột cùng của cuộc đời Ngài. Trên suốt hành trình trải qua ấy , bao nhiêu khó khăn về hoàn cảnh và những biểu hiện giới hạn của báo thân nếu được liên tưởng thì đủ cả bao chướng ngại. Nếu đắn đo cho điều đó, chắc chắn hành trình lịch sử ấy không tô thêm nét đẹp cuộc đời đức Từ Phụ của chúng ta như lịch sử ghi nhận. Những đoạn kí sự ấy được ghi chép khá rõ trong nhiều tình huống xãy ra lúc bấy giờ trong kinh Du Hành.  Có khi đức Phật phải chịu khát vì A nan quan sát thấy: “Vừa rồi có năm trăm cỗ xe lội qua khúc trên sông làm nước đục cả. Chỉ có thể dùng rửa chân, không thể dùng uống được.” Có khi phải chịu đói vì ở những nơi hoang vu và thiếu thốn để thực hiện pháp khất thực, đức Phật dạy các thầy Tỳ-kheo: “Đất này đói kém, khất thực khó khăn, các ngươi nên chia thành từng nhóm, tùy theo chỗ quen biết, hãy đến Tỳ-xá-ly và nước Việt-kỳ mà an cư ở đó để có thể không bị thiếu thốn. Ta một mình cùng với A-nan an cư ở đây.”

Đức Phật thực hiện hành trình trong hoàn cảnh tuổi tác và sức khoẻ như thế chắc hẳn không phải vì mục đích thưởng ngoạn. Từ đầu duyên khởi của chuyến đi đối với Ngài là cả một sứ mệnh rất lớn là cứu vãn hai quốc gia Ma Kiệt Đà và Bạt Kỳ thoát nguy cơ chiến tranh. Và khi những gì cần làm đã được làm xong, sự tự tại dung dị của một nhà du khất vẫn mặt cho hiện tướng thân bịnh của tuổi xế chiều hành hạ, Ngài vẫn tựa chân dưới những gốc cây nơi rừng sâu để ngỉ ngơi phục hồi sức khoẻ rồi tiếp tục thực hiện cho hành trình tiếp theo. Thường tựa lưng dưới gốc cây, Đức Phật  bảo A-nan: “Ta đau lưng quá, hãy sửa chỗ ngồi.”

A-nan đáp: “Vâng”. Rồi dọn một chỗ ngồi. Như Lai nghỉ ngơi. A-nan lễ chân Phật, rồi ngồi sang một bên.

Chúng ta thấy rất rõ, đi đến xứ sở nào hình ảnh đức Phật ngồi dưới gốc cây hoặc Ba Lăng, hoặc Am bà bà lê ( Cây Xoài), hoặc cây Xà đầu, cây Sala….Đây là hình ảnh tiêu biểu của nét đẹp xuyên suốt cuộc đời một hành giả du phương hoàng đạo đúng nghĩa. Khi đến ngoài Thành Ba Lăng Phất đức Phật ngồi dưới gốc cây Ba lăng, những người dân của làng thấy Ngài liền đến đảnh lễ và xin cúng dường. Đặc biệt, sau khi đêm tàn buổi sớm, Ngài lại chọn nơi thanh vắng để ngồi trải nghiệm không gian nơi đây. Đến đâu đức Phật luôn thể hiện một nhà quan sát mọi vấn đề như tìm những điều kì diệu trong mọi sự hiện hữu để tuệ tri mọi thực tại như thật với chính nó. Một sự kiểm chứng không bỏ sót bất cứ một thực tại nào của bậc giải thoát hoàn toàn không còn sự tinh tế nào hơn. Ở đây sự kiểm chứng thực tại  về địa lí và những điều thâm bí được thực hiện cũng thường được đề cập từ nơi đức Phật với những nơi Ngài dừng chân chứ như nhà phong thuỷ học. Ngài phân tích rất chi tiết những điều tốt đẹp của địa thế nơi này thông qua cuộc trò chuyện với A Nan: “Người tạo ra thành này rất hợp ý trời. Lúc đêm đã tàn, trời vừa sáng, Ta đi tới chỗ thanh vắng, bằng thiên nhãn, xem thấy các Đại Thiên thần mỗi vị phong thủ đất đai nhà cửa riêng, các trung thần, hạ thần cũng phong thủ đất đai nhà cửa. A-nan! Nên biết chỗ đất đai nhà cửa nào được Đại Thiên thần phong thủ, ai ở đó tất được an lạc nhiều ; còn chỗ trung thần phong thủ thì hàng trung nhân ở; chỗ hạ thần phong thủ thì hạ nhân ở và công đức nhiều ít cũng tùy theo chỗ ở ấy.

“Này A-nan, chỗ này là chỗ hiền nhân ở, kẻ bán buôn qui tụ, phép nước đúng đắn không dối ngụy. Thành này rất tốt, được mọi nơi suy tôn, không thể phá hoại. Lâu về sau nếu có bị phá chăng chỉ do ba việc; một là bị nước lớn, hai là bị lửa lớn và ba là bị người trong thông mưu với người ngoài phá hoại được thành này.” -Tuệ Sỹ dịch 

Những bước chân Ngài dừng lại và đi qua đều lưu lại những giá trị rất đẹp trong lòng cho những ai được hạnh duyên gặp Ngài. Những dấu ấn tốt đẹp ấy còn lưu lại những gì mà hàng ngàn năm nay vẫn còn sinh động trong thế giới đầy biến động này. 

Bấy giờ, sau thời  pháp tại Ba Lăng Phất, Đức Thế Tôn liền rời khỏi chỗ, đại chúng hầu quanh đưa Ngài trở về. Đại thần Vũ-xá đi theo sau Phật, nghĩ rằng: "Hôm nay, nhân Đức Sa-môn Cù-đàm đi qua cửa thành này, ta hãy gọi cửa này là cửa Cù-đàm. Bến sông mà Phật sang ngang, được đặt tên chỗ đó là bến Cù-đàm."

Đức Thế Tôn ra khỏi thành Ba-lăng-phất, đi đến bờ sông. Lúc ấy, trên bờ sông có nhiều người, trong số đó có người thì dùng thuyền, có người dùng bè, có người dùng phà mà sang sông. Đức Thế Tôn cùng đại chúng chỉ trong khoảnh khắc, như lực sĩ co duỗi cánh tay, đã đến cả bên kia sông.

Và ý nghĩa vô cùng của chuyến đi này đã mở ra rất nhiều cuộc hội ngộ mang đầy ý nghĩa đẹp cả chủ thể hoàng pháp là chính đức Phật và đối tượng được giáo hoá trên hành trình Ngài đi qua.  Không bỏ sót lại bất cứ một ai dù là kỷ nữ hay một cụ già. Và một sự xác nhận rất chân thành như phai phá hết mọi trầm tích khi đánh giá về sự tác đông của vô thường với xác thân Ngài nhưng không chi phối được tinh thần giải thoát của một hành giả hoàn mãn hạnh nguyện.  "Ta nay đã già rồi, tuổi đã đến tám mươi rồi. Cũng như cỗ xe cũ kỹ, nhờ phương tiện tu sửa mà có thể đi đến nơi. Thân ta cũng vậy, nhờ sức phương tiện còn hơi duy trì được tuổi thọ, tự lực tinh tấn mà nhẫn chịu sự đau nhức này. Không suy niệm tất cả tưởng, khi nhập vô tưởng định, thân an ổn, không có não hoạn.

Thật sự "sức định, thân an ổn, không náo loạn" ấy nơi đức Phật được kiểm chứng rõ ràng nhất qua những lời di giáo được xem như bản di chúc bất hủ, một di sản tinh thần vô giá của những gì cho hạnh giải thoát được thực hiện giữa rừng sâu nơi đêm khuya thanh vắng, ngay trong giờ phút Ngài trở về với bản thể Chân Như. Chắc chắn đó chỉ có thể  từ một nhân cách sống đầy đủ sự chân thật, đầy đủ sự kiểm nghiệm về mọi giá trị , và đặc biệt tự thân giải thoát hoàn mãn mới thể hiện đủ ý nghĩa ra đi và trở về tuyệt đẹp đến như thế. 

 






Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/07/2021(Xem: 16115)
Vào thời đại khủng hoảng niềm tin của tất cả tôn giáo, lòng người càng lúc hồi hộp bất an, giáo lý đức Thích Ca Mâu Ni như mặt trời chiều xuống bóng hoàng hôn ,Mật Tông Kim Cang Thừa như ngọn đèn sắp tắt, chỉ còn lại những bộ đại tạng kinh phủ đầy bụi trên những kệ kinh, nằm bất tỉnh không ai hỏi thăm trong những tu viên,viện bảo tàng cô đơn thiếu bóng người. Cuốn sách Mật Tông Kim Cang Thừa Chú Giải Toàn Thư Tập Hai, là sự trình bày và phô diễn mật nghĩa thậm thâm của Đại Phật Đảnh Lăng Nghiêm đà la ni , Bát Đại Kim Cang Thần Kinh và các phụ bản vô thượng du già. Là sự trợ duyên cho những ai, đã có gieo hạt giống pháp môn này, có thể khai hoa kết trái thành tựu sự tu tập giải thoát. Linh Quang từ nhỏ xuất gia tu học , tầm sư học đạo, và đi du học nhiều nước, nên trong đầu nhiều ngôn ngữ lộn qua lộn lại, bây giờ Tiếng Việt cũng quên dần,chính tả viết sai nhiều lắm, nên quý vị thông cảm bỏ qua những lỗi lầm về câu văn từ ngữ.
01/07/2021(Xem: 3738)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm những bí yếu cực kỳ nhiệm mầu, vi diệu mà Chư Phật trao truyền lại cho những ai đủ tín tâm thọ nhận. Pháp-bảo được lưu truyền đến nay, vẫn sáng ngời toả rạng lưu ly qua bao thăng trầm của thế sự vô thường, với tâm nguyện hoằng truyền Chánh Pháp của các bậc minh sư, tuỳ căn cơ chúng sanh mỗi thời mà soạn dịch. Một, trong những bổn kinh Diệu Pháp Liên Hoa thường được trì tụng tại các tự viện là bổn cố đại lão Hoà Thượng Thích Trí Tịnh biên soạn, hoàn tất với 557 trang, gồm 7 quyển, chia thành 28 phẩm , mỗi phẩm đầy đủ văn kinh và thi kệ. Cũng do nhu cầu và phương tiện tu học của Phật tử mà Hoà Thượng Thích Trí Quảng cũng đã lược soạn Diệu Pháp Liên Hoa Kinh thành Bổn Môn Pháp Hoa Kinh để Phật tử tại các Đạo Tràng Pháp Hoa có thể hàng ngày trì tụng mà không bị gián đoạn vì không đủ thời gian. Bổn Môn Pháp Hoa Kinh được Hoà Thượng trân trọng biên soạn, cô đ
29/06/2021(Xem: 6113)
Kính Pháp Sư Sướng Hoài, tôi tu sĩ Thích Thắng Hoan đọc qua tác phẩm PHẬT HỌC VĂN TẬP của ngài viết nhận thấy ngài một nhà bác học uyên thâm Phật giáo nắm vững mọi tư tưởng cao siêu của cácphái, các tông giáo cả trong đạo lẫn ngoài đời. Toàn bộ tác phẩm của ngài đều xây dựng vững chắc trên lãnh vực biện chứng pháp của Nhân Minh Luận. Nội dung tác phẩm trong đó, mỗi một chủ đề ngài biện chứng bằng những lãnh vực mặt phải mặt trái, chiều sâu chiều cạn, mặt phủ định, mặt xác định,cuối cùng để làm sáng tỏ vấn đề bằng kết luận. Tôi vô cùng kính nể kiến thức của ngài.
29/06/2021(Xem: 6311)
Phật giáo dùng từ bi làm căn bản, xem trọng giới sát nên thực hành phóngs anh.Từ nghĩa là trao cho khoái lạc; Bi nghĩa là san bằng khổ não. Người đời rất quý mến thân mạng, chồng vợ con cháu, tiền của, nhưng từ chối mỗi người không thể che chở bao gồm chung cả. Giả như nếu bất hạnh gặp gian nguy, vì cứu thân mình, thà bỏ tất cả vật ngoài thân, để cầu được sinh tồn riêng mình.Con người đã tham sống sợ chết, sanh mạng con vật nhỏ bé như con muỗi, con ve, sâu bọ, kiến mối, còn biết tránh chạy cái chết cầu mong được sống, thì các động vật khác chúng nó sao lại không như thế?
28/06/2021(Xem: 4010)
Trước khi nói đến tinh thần Trung đạo của Phật giáo, thiết nghĩ cần phân biệt sự khác nhau giữa tinh thần “Trung dung” và “Trung đạo.” “Trung dung” là những thiên trong Kinh Lễ. Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra Mục đích của sách Trung Dung là giúp con người hiểu được đạo “Trung dung” để đạt đến một trình độ đạo đức cao hơn. Khổng Tử nói về đạo "trung dung", tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử. Cũng theo tinh thần “Trung dung” như thế, không thể có một thái độ “Trung dung” cố định; tùy thời tùy thế mà linh hoạt. “Trung dung” với ý nghĩa trên là dung hợp, quân bình giữa thái quá và bất cập. Ví dụ : thuyết Duy Vật chủ trương tranh đấu; thuyết Duy Tâm của Đức Khổng Tử, chủ trương điều hòa hai yếu tố cực đoan bằng lẽ Trung Dung.
27/06/2021(Xem: 8355)
Pháp Học và Pháp Hành Khi đề cập đến những người tu trong Phật Giáo, thì chúng ta thấy có phân ra hai khuynh hướng tu học, một số vị thì nghiêng về pháp học, còn số vị khác lại chuyên về pháp hành. Vậy pháp học là gì ? Là cả đời tu chỉ chuyên về việc nghiên cứu, học tập kinh điển, xem các luận bản... để biết được hết Tam tạng kinh điển ( Kinh, Luật, Luận ), nhiều vị còn phiên dịch kinh điển, hay viết ra nhiều bộ luận dựa trên kiến thức, sự hiểu biết đã tích lũy. Nhưng tâm thật sự chứng ngộ, hay đạt đạo thì có thể chưa, chỉ hiểu, chứ chưa thực chứng. ( Còn số vị mà chuyên về pháp học nhưng tâm đã giác ngộ thì rất hiếm có, thời nay càng vô cùng hiếm ).
27/06/2021(Xem: 5625)
- Kính thưa chư Tôn đức, chư Pháp hữu & quí vị hảo tâm. Với tâm niệm hộ trì chư Tôn đức Tăng già, các bậc tu hành nơi đất Phật trong lúc nhiều khó khăn do Dịch covid đang nhiễu nhương, chúng con, chúng tôi đã thực hiện hai buổi cúng dường tịnh tài, tịnh vật và một ít nhu yếu phẩm đến chư Tăng Ni thuộc truyền thống Phật giáo Kim Cương Thừa Tibet tại Dharamsala, các vị Ẩn sỹ trên đỉnh Triund Himachal, cũng như các vị Tăng Ni VN hiện đang theo học PG Mật Tông tại Dharamsala India (19 vị). Sư cô Thích nữ Huệ Thảo đã thừa hành Phật sự này và đã cúng dường tất cả là 245 vị tu sỹ, trong đó có 19 vị tránh tiếp xúc đám đông nên đã nhận chuyển vào tài khoản cá nhân từ Sư cô Huệ Thảo, một số vị vì bịnh trạng đã nhờ bạn đồng tu nhận dùm, mỗi vị thọ nhận 1500INR kèm với một số tịnh vật cúng dường.
26/06/2021(Xem: 15648)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
26/06/2021(Xem: 10852)
LỜI NÓI ĐẦU Tác phẩm “Thế giới Cực Lạc” là tuyển tập các bài giảng của thầy Nhật Từ về nội dung của kinh A-di-đà. Với cách diễn tả và phân tích đơn giản và đi thẳng vào mọi vấn đề, thầy Nhật Từ đã giới thiệu về bản chất Tịnh độ Tây phương gắn liền với xã hội con người. Để có được kết quả vãng sanh Tây phương, mỗi hành giả cần hội đủ năm điều kiện tiên quyết.
25/06/2021(Xem: 7941)
Lời Nói Đầu Nam Mô Đại Từ Đại Bi Tầm Thanh Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát. Kính bạch chư Tôn Đức Tăng Ni, Kính thưa quý Phật tử, Trong thời gian cả thế giới đang bị dịch Covid-19, Sa di Thông Đạo đã dày công nghiên cứu Ngũ Bách Danh - Quán Thế Âm Bồ Tát. Đến nay đã hoàn thành bằng ba ngôn ngữ khác nhau: chữ Việt Nam, chữ Anh, chữ Hán. Bất cứ nơi nào có đạo Phật, chắc chắn có tu sĩ, có Phật tử sinh hoạt chung với nhau. Theo truyền thống Bắc tông, hằng năm các chùa đều tổ chức lễ tưởng niệm Đức Quán Thế Âm Bồ Tát ba lần vào những ngày 19 tháng Hai, 19 tháng Sáu, và 19 tháng Chín Âm lịch.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]