Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đừng Như Dã Tràng

07/02/201816:55(Xem: 5959)
Đừng Như Dã Tràng



Duc The Ton 3
ĐỪNG NHƯ DÃ TRÀNG 

(Nằm trong loạt bài viết về Đời Người và Định Hướng cho Tương Lai)



Sống tâm nguyện sức lực đều cao đẹp

Xây dựng đời hướng thượng thoát khổ đau

Bi trí dũng rất diệu dụng nhiệm mầu

Vận dụng tốt cho muôn loài lợi ích

Sinh được thân người rất khó, cũng là phước báu nhất, trong sáu nẻo luân hồi. Vì đời người có thể TU giác ngộ, giải thoát, thành Phật và thành Thánh. Cho nên mọi nỗ lực của chúng ta, phải nhằm hướng thượng, chứ đừng như Dã Tràng (1) mà uổng công vô ích.

Khi đã thấy, nhận chân cũng như hiểu rõ cuộc đời nầy là vô thường và đau khổ, nên đa số đã hướng đi tìm một con đường thoát khổ. Trong đó Đạo Phật là con đường, mọi người đang chọn, vì Đạo Phật cao đẹp, siêu tuyệt nhất, mà Thái Tử Tất Đạt Đa của dòng họ Thích Ca, đã phải từ bỏ cung vàng, điện ngọc, vợ đẹp, con ngoan vào rừng tìm kiếm. Qua nhiều năm khổ hạnh và bốn mươi chín ngày “thiền định” đã ngộ được và thành Phật. Rồi bốn mươi chín năm lặn lội khắp nơi, để truyền bá lại, hầu dẫn đường cho muôn loại cùng theo. (Nhà Bác Học lừng danh Albert Einstein đã phát biểu về Đạo Phật như sau : "Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó" (The religion of the future will be a cosmic religion. It would transcend a person God and avoid dogmas and theology. Covering both the natural and the spiritual, it should be based on a religious sence, arising from the experience of all things, natural and spiritual, as a meaningful unity. Buddhism answers this description)

Nhờ ánh sáng của giáo lý Đạo Phật, đã chiếu soi khắp cả, nên nhân loại ngày nay, từ Đông sang Tây, nhất là những người Âu, Mỹ, Úc quá nhiều khùng hoảng về tinh thần, khổ đau với văn minh vật chất, kim tiền và chiến tranh, khủng bố, chết chóc, nên đã, đang tìm về với Đạo Phật, đạo của hòa bình.

Người Việt Nam chúng ta, trong cũng như ngoài nước, thấu hiểu được nỗi đau của đồng loại, nên đang hướng về và tu theo Đạo Phật cũng rất nhiều. Với nhiều pháp môn, nhiều tông phái, nhiều dạng tu hành, đã tùy căn cơ và hoàn cảnh mà thâm nhập, truyền bá khắp nơi.

Nhu cầu tu học (tức là nhu cầu muốn thoát ly khổ đau, tìm đường an lạc) cũng đang là nhu cầu bức thiết của loài người chúng ta. Nên đa số đã nôn nóng, vội hành trì hoặc tìm những con đường, hay hướng đi, tưởng chừng như ngắn gọn, hấp dẫn, nhưng rồi đi mãi vẫn không thấy bến bờ và khổ đau mỗi ngày càng thêm lớn!

Tại sao như vậy ?

Vì “Khoảng cách giữa ta với ‘giác ngộ, giải thoát’, có thể được tượng trưng bằng con số của các ‘ham muốn’ mà ta có trong lòng”

“Tham dục là gốc khổ đau. Ham muốn nhiều, lụy khổ càng sâu, nhọc nhằn sinh tử bấy lâu, đều do tham dục dẫn đầu gây nên…”

Đạo Phật là đạo thoát ly tham dục. Ta muốn đi tìm đạo, muốn giải thoát, giác ngộ, mà vẫn mong cầu nhiều thứ, thì làm sao mà đến đích được. Mang nặng quá, dầu có đi đúng hướng, cũng gục ngã giữa đường.

Ta đến chùa không tìm ‘minh sư’ để được hướng dẫn tu học đúng chánh Pháp, hầu chuyển hóa thân, tâm, được tốt nhất, mà tìm những nơi chùa to Phật lớn, để ngắm cảnh, để thỏa mãn hiếu kỳ, để chụp hình lưu niệm. Hoặc tìm những vị Thầy, Cô có nhiều chức vị, danh lợi, để làm đệ tử, để được vinh hạnh hơn. Tìm những nơi vui chơi, thoải mái, hay tìm những pháp vừa tu vừa hưởng thụ, để vừa tu mà cũng vừa thỏa mãn ngũ dục, thì làm sao mà hết khổ và biết bao giờ mới thấy đạo ?  

Đến chùa không lo tu tập miên mật, để chuyển hóa nội tâm, mà muốn cho Thầy chứng, mọi người biết, muốn chứng tỏ mình là người quan trọng, có công với chùa, để cho bạn đạo tôn trọng, khen ngợi, ca tụng, không được như vậy, liền giận, hờn Thầy, Cô, bạn đạo, sanh phiền não, đó là tu danh, tu lợi, sai rồi.

Đến chùa không muốn làm người thấp nhất, với hạnh khiêm cung, để có nhiều cơ hội học hỏi, cung kính, phục vụ, công quả tạo phước điền, hầu triệt tiêu bản ngã, tăng phần công đức, mà muốn chứng tỏ mình là người, “tu lâu, tu nhiều, tu trước” phải có danh dự, phải được vinh hạnh, ăn trên, ngồi trước, cho tiêu hao phước đức, làm đề tài biếm nhẽ trong thiên hạ.

Đến chùa không nhằm mục đích tịnh tâm, cho được phát trí tuệ, hầu nhận định cho được chín chắn mọi điều, trong cuộc sống, từ đó mới có được ứng xử đúng pháp, không bị chuyện thị phi chi phối, mà luôn loạn động, bị dư luận dẫn dắt, ăn nói huyên thuyên, chứng tỏ ta là người tu rành, tu giỏi, chỉ điều này, hướng dẫn điều nọ, cho những người sơ cơ, mới nhập đạo, khiến ái nấy cũng phải nghi ngại, ngao ngán, cười chê. 

Đến chùa không lên chánh điện, hay thiền đường để tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền, cho tâm được an tịnh, hầu tìm chút bình an trong cuôc sống, mà tụ năm, tụm bảy, “bà tám” để nói chuyện thị phi, khen người nầy, trách phiền, chê bai người kia, gây rối loạn xả hội, để luôn bị não phiền chi phối, tâm luôn bất an, ở chùa thì sanh mích lòng, người nầy, kẻ nọ, về nhà thì quát tháo (vợ) chồng, con cái, chỉ chuốc và gieo rắc khổ đau cho nhau thôi, chứ không mang lại một chút an lạc nào, thì chỉ thêm tội lỗi, đọa lạc mà thôi.

Đến chùa không lo học hỏi những gì, cần cho việc tu tập, và lo hành trì, để thoát khổ, cũng như mở rộng tâm từ, bi, hỷ, xả, hầu bao dung, thương người, sống vị tha, thường cúng dường, bố thí, tạo phước lành, cho phước tuệ được hiển bày, mà chỉ biết cuối đầu lạy Phật, với thiết tha cầu khẩn, vái xin những điều mình mong ước, với tâm đầy ích kỷ, muốn nấu cát mà mong thành cơm, thì chắc là khó thành tựu.

Đến chùa chỉ lo làm công quả, để kiếm phước. Tìm những thứ vinh hoa, phú quý hảo huyền, vô thường, biến đỗi, mà chạy theo, để rồi phải chịu nhiều truân chuyên, lận đận, vì bị lường gạt, lừa đảo. Chứ không lo tu tập để được phát huệ, hầu chuyển hóa được nỗi khổ niềm đau, là một sai lầm rất lớn.  

Pháp Phật dùng để hành, hầu mới thoát được khổ đau, không chịu thực hiện, mà đến chùa chỉ biết nghiên cứu giáo lý, để phô diễn tài năng, khiến trở thành “sở tri chướng” ngăn cản việc tu tiến của ta và biến thành một trong bát nạn “Thế trí biện thông” không tin chánh pháp, để tu hành, thoát ly sinh tử khổ đau, mà thành người khoe khoang, nguy hại, nhiều trơ trẻn!

Đến chùa không lo tu học để hạ “ngã chấp”, cho tham sân si được tiêu trừ tận gốc, mà muốn thể hiện tài năng, chứng tỏ hơn người, giỏi hơn tất cả, ta là duy nhất, để rồi “bản ngã” lớn dần và tham sân si cùng từ đó phát triển, làm khổ lụy cuộc đời và rối loạn xã hội.

Đến chùa không buông xả bớt cho nhẹ nhàng, mà ôm đồm vào nhiều thứ, để rồi gánh nặng, chịu khổ, than thân trách phận. Hay so bì người nầy kẻ nọ, rồi “đố kỵ” với nhau, không chia phần công đức với người, mà lại tạo thêm oan trái, tội lỗi, vì phải kiếm chuyện nói xấu về người, để mình bị đánh giá thấp, phải chịu mang tội, trong khi đó người thì được thêm phước!

Đến chùa không để soi xét lại mình, để “tìm hay mà học, tìm sai mà sửa, tìm lỗi mà tránh” hầu hoàn thiện tự thân, sống đời an lạc, mà để dòm ngó người khác, cho phiền não ôm vào, tội lỗi phát sinh. Không hướng vào nội tâm, mà chạy theo hình tướng, hoặc tìm cơ hội giao lưu rộng, tạo điều kiện cho việc gieo duyên danh lợi, chạy theo ngũ dục, từ đây ác nghiệp nẫy nở, khổ lụy cũng chất chồng, trầm luân muôn kiếp…

Tất cả những loại người đến chùa theo các điều kể trên, đều là “Công Dã Tràng” không có ích lợi gì bao nhiêu, mà có khi lại gây khổ lụy, nguy hại cho mình và mọi người, thật là uổng công vô ích, nếu là người Phật tử lại thêm tội lỗi, vì không tôn vinh, mà mang Pháp của Phật ra làm trò cười cho thiên hạ.

Là người con Phật, chúng ta phải hiểu rõ, sự mầu nhiệm và lợi ich vô cùng của Phật Pháp, giúp ta nhận chân được cuộc đời, thực hành tốt những pháp môn của Phật dạy, sẽ thành người tốt, nhìn đâu cũng thấy tốt, sống thanh thoát, hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại và mang lại nhiều ích lợi cho đời, đấy là chúng ta đã hành đúng Pháp Phật, trở thành người hoằng Pháp chân chính, phước đức sẽ vô lượng. Bèn ngược lại, càng tu, “bản ngã” càng lớn, tham sân si, ham muốn càng nhiều, thì càng lắm phiền não, càng gây nhiều oan trái, khổ đau cho đời, thì đó là ta tu sai rồi, càng tu chừng nào càng xa chân lý chừng ấy.

Đời người ngắn lắm, hãy mau thức tỉnh, để chỉnh sửa lại, mà thực hành đúng Pháp Phật, hầu hưởng được sự an lạc, ngay từ giờ phút nầy. Kẻo “Đừng Như Dã Tràng” mà uổng công vô ích !

Hạnh phúc nằm ở tinh thần

Tiện nghi vật chất nợ nần đeo mang

Phật tánh trong tâm rõ ràng

Tìm cầu hướng ngoại “Dã Tràng” uổng công !

 

Pháp Hoa - Nam Úc, những ngày cuối năm Đinh Dậu, đón mừng năm Mậu Tuất

Thích Viên Thành

Ghi Chú:

(1) Dã Tràng: Học từ điển tích ghi: “Câu chuyện bắt đầu đã từ rất lâu rồi.

“Tương truyền tại một vùng nọ có chàng thợ săn tên Dã Tràng, một ngày kia nhìn thấy một cặp rắn. Khi con rắn cái lột da thì rắn đực đi tìm đồ ăn mang về cho rắn cái. Nhưng khi rắn đực lột da thì rắn cái bèn bò đi tìm rắn đực khác. Dã Tràng bất bình bèn bắn chết rắn cái. Rắn đực đi tìm vợ, gặp Dã Tràng mới hiểu ra vợ mình xấu xa. Rắn đực bèn trả ơn Dã Tràng bằng một viên ngọc lạ, mỗi lần Dã Tràng ngậm viên ngọc này thì có thể nghe và hiểu được tiếng nói của loài vật.

Tin viên ngọc lạ có thể cho con người hiểu ngôn ngữ loài vật bay đến tai vua. Vua cho đòi Dã Tràng tới, mượn viên ngọc của chàng và ban thưởng nhiều của cải.

Một hôm vua xuống thuyền, ngậm viên ngọc, nghe được các loại cá mực hát rất hạy Vua bật cười, viên ngọc bị rơi xuống biển.

Dã Tràng tiếc viên ngọc, ngày đêm ngụp lặn tìm kiếm, kiệt sức chết đi. Dã Tràng biến thành một loài cua bể ngày đêm tha cát lấp biển để tìm lại viên ngọc đã mất.

Dã Tràng tha cát lấp bể, sóng biển lại đánh vào tan đi hết, cho nên trong dân gian Việt Nam có câu:

"Dã Tràng xe cát biển đông/ Nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì" ý nói với những việc không thể thì dù cố gắng đến mấy cũng vô ích”.

Ở đây muốn nói lên rằng, người con Phật, phải biết sáng suốt, làm những việc trong tâm thành, chánh niệm, thì mới mong có được kết quả tốt, bèn không sẽ là “công Dã Tràng” chỉ mất công vô ích và có khi phải mang thêm tội lỗi, mà thôi !

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/08/2021(Xem: 6825)
Các câu trích dẫn giáo huấn của Đức Đạt-lai Lạt-ma dưới đây được ghi lại từ một tư liệu trên trang mạng tiếng Pháp Evolution-101 https://www.evolution-101.com/citations-du-dalai-Lama/. Các câu này được xếp theo các chủ đề: 1- Tình thương yêu 2- Tiền bạc 3- Hạnh phúc 4- Lòng tốt
18/08/2021(Xem: 10065)
LỜI MỞ ĐẦU Thông thường ở bất cứ quyển sách nào cũng có lời mở đầu của chính tác giả, hoặc lời giới thiệu của một người nào đó cho tác phẩm sắp được ra đời. Nay cũng nằm trong thông lệ ấy, tôi viết lời nói đầu cho quyển sách năm nay lấy tên là: "CHÙA VIÊN GIÁC", một quyển sách bằng tiếng Việt mà bao nhiêu người đã chờ đợi.
17/08/2021(Xem: 7740)
Thật là một điều kỳ diệu và lý thú khi được tin báo trên Viber là Tuyển Tập pháp Thoại vừa hoàn thành và đã sẵn sàng đến tay Phật Tử khi đến dự Lễ Vu Lan tại Tu Viện Quảng Đức (nếu không bị lockdown). Vì sao gọi là kỳ diệu? Chỉ sau khi tôi được học xong 10 duyên mà Đức Phật cho là quan trọng nhất theo thứ tự của 24 duyên, mà chúng ta ai cũng phải gặp trong thời gian còn làm người phàm, và nếu hiểu rõ tường tận thì mình có thể sẽ không bao giờ thốt lên câu “Học muôn ngàn chữ nghĩa nhưng không ai học được chữ Ngờ” của bộ Đại Phát Thú / Vi Diệu Pháp, do Giảng Sư Thích Sán Nhiên đã thuyết giảng qua 61 video, mỗi video kéo dài từ 3: 00 đến 3:50 giờ. Chính vì thế, nhờ đó tôi chợt nhận ra nhân duyên gì đã làm trưởng duyên và đẳng vô gián duyên, để tôi đến với Đại Gia Đình Quảng Đức Đạo tràng nói chung, và tiếp xúc liên hệ với TT Trụ trì Tu viện Quảng Đức Thích Nguyên Tạng và được cộng tác với Ngài trên trang website Phật Giáo, Trang Nhà Quảng Đức, để rồi hôm nay lại có duyên
17/08/2021(Xem: 5252)
Phần này bàn về cách dùng nên so với lên vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các âm này được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Ngoài ra, từ thời Việt Bồ La thì nước Việt đã mở rộng bờ cõi đến tận Cà Mau và khuếch đại các sự khác biệt trong ngôn ngữ như phương ngữ Nam bộ (tiếng Nam Kỳ) so với Bắc Bộ. Do đó các nhân tố địa-chính-trị đã đóng phần không nhỏ trong quá trình hình thành tiếng Việt hiện đại, thí dụ như cách nói "nên mười tuổi", cùng với khuynh hướng "chuẩn hóa" tiếng Việt so với hiện tượng lẫn lộn n và l mà một số tác giả cho là ‘nói ngọng’ đều liên hệ phần nào đến chủ đề bài này.
16/08/2021(Xem: 7712)
Con người sinh ra từ xưa đến nay ai ai cũng phải trải qua 4 giai đoạn. Đó là: Sanh, Già, Bệnh và Chết. Tuy nhiên cũng có người chỉ sanh ra rồi chết liền, không trải qua giai đoạn già hay bịnh; hoặc có người chưa già đã chết vì bịnh hay tai nạn; cũng có lắm người phải sống đến 100 năm hay hơn thế nữa để thấy cuộc thế đổi thay, nhiều khi muốn chết mà chết cũng không được. Dẫu biết rằng sống hay chết là một việc tự nhiên của con người, của muôn vật và ngay cả những chúng sanh có đời sống cao hơn và lâu dài hơn chúng ta, như những vị được sanh ra ở cõi Sắc hay cõi Vô Sắc đi chăng nữa, rồi một ngày nào đó cũng phải chết, phải đi đầu thai. Họ chỉ khác chúng ta là ở cõi đó đời sống sung sướng hơn, có tuổi thọ dài lâu hơn. Vì khi làm người, họ đã biết tạo dựng nhiều phước báu, nên kiếp nầy họ mới được như vậy.
15/08/2021(Xem: 5168)
Cúng ma chay, giỗ người thân đã mất, giỗ ông bà tổ tiên, cúng cô hồn vào những ngày rằm, ngày lễ như lễ Vu Lan, Tết Nguyên Đán …vv cùng với đốt vàng mã là truyền thống ‘tâm linh’ lâu đời của người Việt Nam, là cách tưởng niệm, bày tỏ lòng biết ơn, hiếu đễ đối với người đã khuất, tổ tiên và thần linh. Ngày nay, việc cúng người chết, cúng ‘cô hồn’ và đốt vàng mã tràn lan trên tinh thần kiến chấp ‘dương sao âm vậy’, nên các loại vàng mã thay đổi đa dạng sao cho phù hợp với nhu cầu thực tế nầy: ngoài áo giấy ra, vàng mã còn có cả xe hơi, nhà lầu, ipad, di động, đô la vv với ý niệm ‘thiện lành’ (nhưng tà kiến) là để người ‘âm’ sử dụng. Không những tập tục này phát triển biến tướng trong nhân gian mà còn ảnh hưởng không tốt đến môt số Phật tử tại gia, và ngay cả tại một số tự viện.
15/08/2021(Xem: 7882)
Là người hay là thú, sinh ra đời nếu bộ não bình thường thì tất cả đều có cái biết. Biết đói, biết no, biết khát, biết nóng, biết lạnh, biết thiếu, biết đủ v.v… Tâm trí loài vật, có nhiều loài khá khôn ngoan, nhưng khôn ngoan cách nào cũng không bằng con người. Khi còn nhỏ cái biết của con người rất hạn hẹp. Khi lớn lên cái biết dần mở rộng, nhờ học hỏi từ môi trường gia đình, học đường, xã hội. Tùy theo căn cơ mà có người thông minh học một biết mười, có người kém thông minh chậm hiểu. Nhưng dù cái biết của người thông minh hay cái biết của người kém thông minh thì đó cũng là cái biết cần thiết cho đời sống.
13/08/2021(Xem: 6622)
Công ơn cha mẹ tựa biển trời Làm sao báo hiếu hỡi người ơi? Nếu chưa báo hiếu đừng bất hiếu Bất hiếu làm ta khổ trọn đời.
13/08/2021(Xem: 9515)
Nam Mô Vu Lan Hội Thượng Phật Bồ Tát Phật Dạy Ân Đức Cha Mẹ - A-nan! Ân đức cha mẹ có 10 điều sau đây: MỘT là ân thai mang giữ gìn: Vì sự nghiệp lực nhân duyên, nên nay ky' thác thai mẹ. Lâu ngày khổ sở, chín tháng cưu mang, nặng nhọc như đội núi, đi đứng sợ gió mưa, quần áo không sửa soạn, trang điểm còn kể chi.
09/08/2021(Xem: 8654)
Các lời trích dẫn giáo lý của Đức Phật cùng các danh nhân khác thường thấy trên mạng, báo chí và tạp chí đủ loại tại các nước Tây phương. Dường như trong cuộc sống dồn dập tại các nơi này, một số người đôi khi cũng thích đọc một vài câu ngắn gọn nhưng sâu sắc, giúp mình suy nghĩ về xã hội, con người và sự sống nói chung.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]