Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Giới và Luật

14/01/201806:05(Xem: 7567)
Giới và Luật

Duc The Ton 2
GIỚI  VÀ  LUẬT
Bài của Cư Sĩ Minh Mẫn
Diễn đọc: Chân Hiền Hiếu




 

Hầu hết các tôn giáo đều có Giới và Luật để tổ chức tồn tại trong trật tự, bảo về tinh đoàn kết nội bộ, riêng Phật giáo, Giới và Luật không chỉ đơn thuần như thế, còn mang tính “khế thời, khế cơ và khế lý” bàng bạc tinh thần dân chủ mà gần 3000 năm trước, xã hội con người lúc bấy giờ trên tinh cầu còn bị thống trị bởi óc phong kiến và nặng về giai cấp.Vậy Giới và luật của Phật giáo như thế nào?

Theo Đại tự điển Phật Quang định nghĩa Giới là:

Tấng lớp, căn cơ,yếu tố, nền tảng, chủng tộc…

  1. Giới  dùng để gọi các phạm trù phân loại, như 6 căn, tiếp xúc với 6 trần, mà sinh ra 6 thức.
  2. Đất, nước, lửa, gió, không, thức gọi là 6 giới. Dục giới, sắc giới, vô sắc giới gọi là tam giới.”Giới” này gần như nghĩa là cảnh giới. Tông Duy thức gọi chủng tử của tất cả pháp là giới.”Giới” này có nghĩa là yếu tố, nguyên nhân.
  3. Giới bản gọi là Ba La Đề Mộc Xoa

Giới là những điều răn cấm do Đức Phật đặt ra khiến các đệ tử xuất gia và tín đồ tại gia giữ gìn để ngăn ngừa tội lỗi.

Theo Luận Bồ đề Tư lương quyển 1 thì giới có 10 nghĩa: Tập cận, bản tính, thanh lương, an ổn, an tĩnh, tịch diệt, đoan nghiêm, tịnh khiết, đầu thủ và tán thán.

Giới gồm có  Tính giới và giá giới. Tính giới cũng còn gọi là Cựu giới, Chủ giới, Tính trọng giới. Giới này bản chất là tội ác như Giết hại, trộm cướp, tà dâm và vọng ngữ.

Giá giới cũng gọi là Tân giới, khách giới,tức Thế cơ hiềm giới, ly ác giới. Giới này bản chất không phải là tội ác, không nằm trong bốn giới nặng như trên…

Theo Tứ phần luật thì Giới chia làm 4 là Giới pháp, giới thể, giới hạnh và giới tướng.

Luận Du già sư địa quyển 40 nêu ra Tam tụ tịnh giới : Nhiếp luật nghi giới, nhiếp thiện pháp giới, nhiêu ích hữu tình giới.

Ma ha chỉ quán quyển 4 nói – sự giới (cũng gọi là tùy tướng giới) có khả năng dẫn đến ba đường là Trời – người - A tu la. Lý giới ( còn gọi là lý tưởng giới) là giới không chấp vào hình tướng, mà trụ trong Tam quán không giả trung.

Mười giới cơ bản cho Tỳ kheo – tỳ kheo ni – Sa di – Sa di ni là:

  1. Không giết hại
  2. Không trộm cắp
  3. Không tà dâm
  4. Không nói dối
  5. Không say sưa
  6. Không ăn quá bữa
  7. Không nghe  âm nhạc, hát xướng và các trò chơi khác
  8. Không xức dầu thơm, trang điểm
  9. Không ngủ giường cao, đệm êm
  10. Không dính líu chuyện tiền bạc phiền hà thế gian.( cũng có chỗ ghi là không giữ tiền, vàng bạc của quý)…

 

Năm giới đầu được áp dụng cho Cư sĩ, và trong một số ngày đặc biệt như Bát Quan trai có thể lên đến tám

Giới là những quy định hạn chế sai phạm thông thường, trong lúc đó Luật được hiểu là quy luật dành cho những người xuất gia, sống trong chùa hay thiền môn, tu viện.

                                        
         ***

Giới và luật vốn khác nhau. Thông thường giới là những điều được nói trong Luật thuộc ba tạng, là một bộ phận của Luật. Còn luật là những bộ sách giải thích rõ về giới và đặt ra những quy định xử phạt khi phạm giới.

Luật – còn gọi là Ty ni, nghĩa là “điều phục, li hạnh, diệt, thiện trị. Những quy định do Đức Phật chế định có liên quan đến đời sống Đạo mà các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni phải tuân thủ. Đưa ra những chế định xử phạt khi phạm tội.

Sau khi đức Phật nhập diệt, Ưu Ba Li kết luật pháp 80 lần gọi là bát thập tụng luật. Thông thường chỉ nghe đến bộ Tứ phần luật, thực ra còn có Thập tụng luật, Ngũ phần luật, và những bộ luật của các bộ phái khác.

(Phật Quang Đại từ điển ) 

Ngoài 10 giới cơ bản, Tỳ kheo còn có 250 giới, Tỳ kheo ni có 348 giới

Giới có là do có người sai phạm, tùy loại hình sai phạm mà Phật chế giới. Tuy nhiên, một điều quan trọng đã được ghi lại trong Kinh, là trước khi đức Phật Thích Ca diệt độ, ngài đã căn dặn cho A-nan-đà, người đệ tử thân cận nhất của ngài: " Này A-nan-đà, sau khi ta ra đi, nếu Tăng đoàn muốn, có thể bỏ được trong Giới Luật những điều nhỏ nhặt, không đáng kể " (Kinh Đại Bát Niết Bàn Pali). chính vì thế trong luật có khai – giá – trì – phạm.

Thế nào là khai giá trì phạm trong luật Tứ phần?theo Thiền sư Duy Lực giảng:
Khai: Ví như uống rượu là phạm giới, có tội phạm giới nhưng không có tội nhân quả, cho nên có thể khai. Khai bằng cách nào? Trường hợp mắc bệnh mà thầy thuốc nói cần uống thuốc rượu mới hết, ngươì ấy khai báo ra lý do, ấy là không phạm.
Giá: Giá là che. Tại sao phải che? Trong giới luật, như một trăm điều về tứ oai nghi cũng chỉ có tội phá giới, không có tội nhân quả. Vậy thì tại sao phải lập ra những giới điều trên? Là vì muốn che không cho người đời phê bình. Ví như ở Ấn Độ, nếu Tu sĩ đi làm ruộng thì người đời phê bình, cho nên làm ruộng là phạm. Ngược lại, ở Trung Quốc, Tu sĩ đi khất thực thì người đời lại chê là con mọt gạo, còn đi canh tác thì được chấp nhận, nên ở Trung Quốc làm ruộng là giữ giới, ở Ấn Độ làm ruộng lại phá giới. Tại sao phải che? vì hễ muốn hoằng pháp thì phải phù hợp với phong tục của địa phương đó.

Trì và phạm: Gồm chỉ trì và tác trì, từ 5 giới, 10 giới, đến 250 giới, 348 giới Thanh Văn, gọi là chỉ trì, tức không làm thì không phạm, còn giới Bồ tát gọi là tác trì, những việc cần làm thì phải làm, không làm là phạm.

Giới được phân định: Biệt giải thoát giới ", " Đạo cộng giới " và " Định cộng giới”

Theo truyền thống, trong 12 năm đầu, đức Phật chưa chế ra giới, vì chưa có chuyện gì rắc rối xẩy ra trong Tăng đoàn, có thể gây nên cản trở cho sự tu tập của tăng ni.

Nhưng vào năm thứ 13, có xẩy ra chuyện Na-đề-tử ân ái với vợ cũ, cho nên Phật mới bắt đầu chế giới. Mỗi khi chế một giới, ngài lại nói 10 lợi ích của việc chế giới đó: " Vì sự kiện toàn của Tăng già, sự trường tồn của Chánh Pháp, sự an lạc của Tăng chúng, sự tăng trưởng của lòng tin, sự đoạn diệt phiền não trong hiện tại và tương lai... "

Cứ như vậy, mỗi khi xẩy ra một sự cố, ngài lại chế thêm một giới, và dần dần số giới mỗi ngày một gia tăng,.Tuy nhiên đa số giới luật là những giới nhẹ, nhỏ nhặt, vụn vặt, không cần thiết. Chẳng hạn như " không được xỉa răng, hỉ mũi hướng về tượng Phật ". Nếu muốn chú tâm vào những giới quan trọng, chính yếu một cách nghiêm chỉnh, thì người ta phải bỏ đi những giới thứ yếu, nhỏ nhặt, không cần thiết

                                                    ***

Do đâu phải giữ giới?

- Bạch Thế Tôn, các thiện giới có ý nghĩa gì, có lợi ích gì?

- Này Ananda, các thiện giới có ý nghĩa không có hối tiếc, có lợi ích không có hối tiếc.

- Nhưng bạch Thế Tôn, không có hối tiếc có ý nghĩa gì, có lợi ích gì?

- Này Ananda, không có hối tiếc có ý nghĩa hân hoan, có lợi ích hân hoan.

- Bạch Thế Tôn, nhưng hân hoan có ý nghĩa gì, có lợi ích gì?

- Này Ananda, hân hoan có ý nghĩa hoan hỷ, có lợi ích hoan hỷ.

- Nhưng bạch Thế Tôn, hoan hỷ có ý nghĩa gì, có lợi ích gì?

- Này Ananda, hoan hỷ có ý nghĩa khinh an, có lợi ích khinh an.

- Nhưng bạch Thế Tôn, khinh an có ý nghĩa gì, có lợi ích gì?

- Này Ananda, khinh an có ý nghĩa an lạc, có ích lợi an lạc.

- Nhưng bạch Thế Tôn, an lạc có ý nghĩa gì, có lợi ích gì?

- Này Ananda, an lạc có ý nghĩa định, có lợi ích định.

- Nhưng bạch Thế Tôn, định có ý nghĩa gì, có lợi ích gì?

- Này Ananda, định có ý nghĩa như thật tri kiến, có lợi ích như thật tri kiến.

- Nhưng bạch Thế Tôn, như thật tri kiến có ý nghĩa gì, có lợi ích gì?

- Này Ananda, như thật tri kiến có ý nghĩa nhàm chán, ly tham, có lợi ích nhàm chán, ly tham.

- Nhưng bạch Thế Tôn, nhàm chán, ly tham có ý nghĩa gì, có lợi ích gì?

- Này Ananda, nhàm chán, ly tham có ý nghĩa giải thoát tri kiến, có lợi ích giải thoát tri kiến.

Dưới dạng Mật giới, hành giả nguyện rằng:

  1. Không lìa chính pháp;
  2. Không xao lãng việc tu tập;
  3. Không tham lam, không ích kỉ;
  4. Lúc nào cũng giữ lòng từ bi với chúng sinh;
  5. Không phỉ báng một tông phái nào của Phật giáo;
  6. Không bám chặt vào bất cứ cái gì;
  7. Không ôm ấp vọng tưởng;
  8. Khuyến khích chúng sinh phát tâm Bồ-đề;
  9. Thuyết giảng giáo pháp Đại thừa cho những người theo Tiểu Thừa;
  10. Luôn luôn bố thí cho chư vị Bồ Tát.

                                        ***

Đức Phật dạy trong Kinh Pháp Cú 160: “Ta là nơi nương nhờ của ta, không ai khác là nơi nương nhờ của ta được, khi ta đã thuần tịnh thì đó là nơi nương nhờ hy hữu.” mục đích của giới, trên nguyên tắc, là để " phòng phi chỉ ác", tức là phòng ngừa các điều phi pháp và ngăn chận các điều ác quấy, đồng thời cũng là chỉ ác tác thiện ", tức là ngăn chận các điều ác và thành tựu các việc lành. Cũng như lời dạy đức Phật trong Kinh Pháp Cú, 183, lập lại bởi thiền sư Ô Sào: " Chư ác mạc tác, Chúng thiện phụng hành, Tự tịnh kỳ ý, Thị chư Phật giáo " (Không làm các điều ác, thành tựu các việc lành, giữ tâm ý thanh tịnh, ấy lời chư Phật dậy).

Như vậy, đức Phật đã khẳng định giữ gìn giới luật là điều quan trọng.Giới luật còn thì Phật pháp còn.

Khác với luật pháp thế gian, Giới luật của Phật giáo, được xây dựng trên từ bi và trí tuệ hiểu biết về nhân quả, nghiệp báo nên không bị giới hạn hạn bởi không gian, thời gian. Tuy rằng khi chế định giới luật, Đức Phật có dựa trên nền tảng xã hội, văn hóa đương thời nhưng mục đích chú trọng sự giáo dục để phát triển khả năng đạo đức tốt đẹp nhất của con người, đem lại hạnh phúc thật sự cho con người và từng bước đưa họ vào thánh đạo. Do đó, muốn hiểu giới luật của Phật giáo thì phải biết rõ về định luật nhân quả, nghiệp báo.

Người phạm tội ác sẽ chịu tác động bởi luật nhân quả, nhưng người phạm giới thì phạm vào giới luật đã thọ nhận và dĩ nhiên nhân quả cũng không tránh khỏi.Dù không hành động hay nói lời ác, nhưng ý tưởng độc ác vẫn là hạt giống xấu đợi ngày trổ quả.

Luật thế gian mang tính ngăn chận xâm hại quyền lợi của xã hội, của người khác, riêng luật giới nhà Phật vì lòng từ bi mà không nỡ hành động bằng lời nói, việc làm và ý nghĩ làm tổn hại kẻ khác và gieo nhân xấu cho chính mình.

                                                     ***

Giới luật ngày nay, để thich nghi với nhu cầu nhân loại, giới cần bổ sung cho tín đồ  đang cộng sinh trên tinh cầu - 5 giới căn bản của người Phật tử, không ai chối cãi sự cần thiết và sự ích lợi cho bản thân cũng như cho xã hội, nhưng cần  thêm một số chi tiết cho phù hợp với thời đại, như 1) ...không sát hại súc vật, không làm hại môi trường, thiên nhiên, trái đất; 2) ...không bóp méo, trốn tránh, che đậy sự thật, 3) ...không ăn cắp của công, không tham nhũng, không gian lận, 4) ...không phá hoại hạnh phúc gia đình của người khác bằng cách tư tình phi pháp, 5) ...không hút thuốc, nghiện thuốc hay ma túy, không dùng các chất hóa học gây rối loạn thần kinh…

Tuy nhiên có một vài trường hợp Giới luật đã gây lấn cấn trong tu sĩ ở phương Tây hiện nay luôn tôn trọng sự bình đẵng giữa nam và nữ thì Bát kỉnh pháp lại là vấn đề mà chư Tăng đang xét lại cho thích nghi với quốc độ đang sống.

                                                        ***

Xác định giới giúp đưa đến Định, từ định thì Tuệ sẽ phát sinh.Giới luật là một phần trong giáo pháp của Phật. Theo tinh thần “Phật giáo phát triển” thì thế gian pháp tức Phật pháp, có nghĩa Phật pháp là bất định pháp, có thể uyển chuyển linh động “tướng giới”mà vẫn không đánh mất “tánh giới”.Thời Phật còn tại thế, chư Tăng chỉ đi trì bình khất thực nuôi thân và không giữ tiền, nếu khư khư chấp chặt giới tướng như thế thì đạo Phật khó mà phát triển như ngày nay.

Trong xã hội công nghiệp và chú trọng hiệu quả kinh tế, chư Tăng không thể ngày ngày ôm bình đi khất, cá nước phương Tây, chư Tăng cũng phải đi làm như mọi người, vì thế, Tổ  Bách trượng đã sáng tạo loại hình “nông thiền” để tự túc kinh tế mà không bị xem là loại “mọt hạt gạo”. Ngày nay, trừ vài nơi nông thôn chư Tăng còn canh tác, hầu hết vùng nghèo khó trong cuộc sống, nhà chùa không thể ngồi chờ bá tánh cúng dường, do đó, một số chùa tự sản xuất thực phẩm, nhang đèn để nuôi chúng.Chư Tăng ngày nay đi hoằng pháp không thể đi bộ như thời đức Phật, nếu không giữ tiền ai cho lên xe, hoặc cây xăng đâu cho không các tu sĩ. Đừng vì thế mà bảo là phạm giới.

Đừng nhìn giới tướng mà đánh giá nếu giới tánh không khởi lòng tham mong cầu dư thừa vật chất hoặc bon chen se sua với người đời. Tinh thần “tam thường bất túc” vẫn còn giá trị cho chư Tăng trong thời đại kinh tế thị trường ngày nay. Cho dù kinh doanh bất cứ dưới hình thức nào mà “tri túc, tiện túc, hà thời túc” vẫn có thể chấp nhận; đấy là tinh thần giới luật của Phật tùy cơ, tùy thời và tùy xứ, không bị “giới cấm thủ” giết chết giá trị giới luật của đức Phật.

 

Sài gòn ngày 13/01/2018
Cư Sĩ Minh Mẫn

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/09/2020(Xem: 5395)
Cư sĩ Mahā Silā Vīravong, sử gia Lào, nhà ngữ văn, giáo viên dạy tiếng Pali, người hiện đại hóa bảng chữ cái Lào, một nhân vật trí thức lớn của nền độc lập Lào. Trong các cuộc đấu tranh chống lại sự cai trị của thực dân đế quốc Pháp, bằng cách tích cực hoạt động trong phong trào của Lào Issara mà ông lưu vong tại Vương quốc Thái Lan vào năm 1946.
29/09/2020(Xem: 5381)
Bảy đại diện của Hội nghị Hàn Quốc về Tôn Giáo và Hòa Bình (KCRP), bao gồm Hòa thượng Viên Hạnh (원행스님 - 圓行和尚), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 36, đã gặp gỡ Thủ tướng Chính phủ Hàn Quốc Chung Sye-kyun (정세균; Đinh Thế Quân), và cam kết hợp lực để tìm ra một kế hoạch hợp tác, đôi bên cùng có lợi cho cả các hoạt động tôn giáo và phòng chống cơn đại dịch hiểm ác Virus corona.
29/09/2020(Xem: 4545)
Có lẽ chuyến du lịch hành hương không gian mạng, các bạn nhìn thấy một thứ tương tự như thế này từ một cửa hàng trực tuyến: “Chuỗi hạt Tây Tạng Mala Charm Vòng đeo tay Cát tường tuyệt đẹp này với các hạt màu phấn nhẹ nhàng, phù hợp để thực hành chân ngôn thần chú, và để đeo làm đồ trang sức”.
29/09/2020(Xem: 5317)
Tứ là bốn, nhiếp là thu phục, pháp là phương pháp. “Tứ Nhiếp Pháp” là bốn phương pháp lợi tha, đã được Đức Phật Thích Ca dạy cho các đệ tử tại gia cũng như xuất gia của Ngài. Bốn pháp này nếu thực hành đúng đắn sẽ có công năng giúp con người lìa xa cuộc sống buông lung, phóng túng… mà theo đó dễ có những hành động bất thiện gieo khổ đau cho người và phiền não cho mình. Tứ Nhiếp Pháp giúp con người quay về với đường ngay nẻo phải, hay chính xác hơn là trở về với Phật pháp. Phật pháp là con đường tu hành chân chính, hướng về tâm linh đi đến giác ngộ giải thoát.
29/09/2020(Xem: 5583)
Trong khi ý tưởng về Phật giáo đã đạt đến một vị thế rõ ràng trong triều đại nhà Minh (1368-1644) đã lỗi thời trong giới học giả, nó vẫn tồn tại bởi vì vẫn còn tồn tại quan niệm phổ biến, ngay cả trong giới Phật giáo đương đại, rằng Phật giáo đã đạt đến đỉnh cao về trí tuệ, và triết học vào triều đại nhà Đường (618-907), trước khi bị tê liệt bởi nhiều cuộc khủng hoảng và đàn áp, sau đó suy tàn vào triều đại nhà Tống (960-1279) và kế đến triều đại nhà Minh. Đây không phải là hoàn toàn nhầm lẫn, cũng không phải là đầy đủ câu chuyện. Nhà xuất bản Đại học Columbia một lần nữa đã phát hành một nghiên cứu đột phá, có thể thay đổi sự hiểu biết của học giả - và có lẽ là nhiều năm sau, sự hiểu biết phổ biến – về kinh nghiệm của Phật giáo vào triều đại nhà Minh.
29/09/2020(Xem: 6921)
“So sánh với thế giới ngày nay, tôi nghĩ rằng mọi người ở khắp nơi đều cảm thấy hòa bình là rất quan trọng. Vào thế kỷ trước, chúng ta đã chi rất nhiều tiền và kiến thức khoa học để chế tạo vũ khí, bao gồm cả vũ khí hạt nhân. Bây giờ tôi nghĩ rằng phải khai trừ thái độ tinh thần đó và đã thay đổi nhiều. Bây giờ mọi người đang thể hiện mối quan tâm nghiêm túc về hòa bình; điều đó rất quan trọng. Ngày nay do đại dịch hiểm ác Covid-19 nên tình hình kinh tế đang gặp nhiều khó khăn. Trong thời kỳ nguy khốn như vậy, suy nghĩ về vũ khí là không thực tế và lỗi thời. Bây giờ chúng ta phải nghĩ về một thế giới hòa bình.
29/09/2020(Xem: 5134)
Hai cây đàn gỗ, thường gọi là đàn thùng, được chủ nhân treo gần bên nhau trên chung một vách gần bên kệ kinh sách. Sáng sớm, cây Đàn Mới Đẹp được chủ mang đi hòa tấu ở đâu đó đến trưa mới mang về treo lại bên cây Đàn Cũ Kỹ. Gần bên nhau hơn cả giờ đồng hồ, thấy Đàn Cũ Kỹ vẫn im thin thít không hỏi han gì, Đàn Mới Đẹp ấm ức hỏi: "Sao anh không hỏi gì?"
28/09/2020(Xem: 6228)
Họa sĩ Nhân dân Mông Cổ, Cư sĩ Urjingiin Yadamsuren (1905–1986) là cha đẻ của Nghệ thuật Mông Cổ hiện đại, đặc biệt là một phong cách chịu ảnh hưởng của “Hiện thực xã hội chủ nghĩa” (Socialist realism), cũng như các phong cách và kỹ thuật truyền thống của Mông Cổ, được gọi là Mongol Zurag. Phong cách lấy chủ đề Mông Cổ thường nhật và làm cho những người bình thường và thực hành chủ đề này.
28/09/2020(Xem: 7028)
Sáng nay chúng con, chúng tôi lại tiếp tục lên đường gieo hạt tình thương, nơi đến cứu trợ hôm nay là một địa điểm đặc biệt liên quan đến lộ trình hoằng pháp của đức Phật, đó là nơi Ngài đã thuyết Bài Kinh Lửa Cháy (Aditta-pariyaya Sutta- Tương Ưng Bộ Kinh- Kinh 35.28). Như trong kinh tả lại, vài tháng sau khi giác ngộ, Đức Phật giảng bài pháp nầy cho 1,000 tu sĩ theo phái thờ thần lửa. Qua lối giảng siêu việt của Ngài, Đức Phật đã dùng ví dụ về lửa cháy (lửa tham, sân, si) để dạy về tâm xả ly đối với các cảm thọ qua sáu căn. Sau khi nghe bài giảng nầy, toàn thể thính chúng đắc quả A la hán.(Đường Link để tham khảo bài Kinh: Kinh Lua Chay)
28/09/2020(Xem: 6741)
Dharamshala: Thủ tướng Chính phủ Tây Tạng lưu vong (Sikyong), Tiến sĩ Lobsang Sangay, nhà lãnh đạo Chính trị được bầu dân chủ Tây Tạng, Cục Quản lý Trung ương Tây Tạng lưu vong đã ra mắt cuốn sách do Hoà thượng Acharya Yeshi Phuntsok, Phó Chủ tịch Quốc hội Lưu vong Tây Tạng biên soạn với chủ đề “So sánh Hiến pháp của các Quốc gia Dân chủ Khác nhau” (Comparative Constitutions of Various Democratic Nations). Tác phẩm tập trung vào việc so sánh Hiếp pháp của các quốc gia dân chủ khách nhau trên thế giới, và giải thích các loại Hiếp pháp Dân chủ khác nhau một cách đơn giản nhưng sâu sắc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]